NGUYỄN TÚ
Nhân đọc bài "Sứ mệnh kẻ sĩ trước nghĩa Cần Vương'' đăng trong Tạp chí Sông Hương số 4, tháng bảy - tám 92, tôi xin có một ý kiến nhỏ gọi là góp phần tìm hiểu.
Như tác giả Lê Quang Thái đã trích dẫn thì hiện còn nhiều nhà viết sử chưa thống nhất với nhau về thời gian lịch sử của phong trào Cần Vương: người thì "tính đại khái nghĩa văn thân bốn mươi ba tháng; người thì nói "từ khi Gia Định thất thủ" v.v...và V.V....(1)
Theo ý riêng của chúng tôi thì:
1. Kể từ tiếng súng xâm lược của Pháp nổ ra ở cửa Đà Nẵng (1858) đến khi Kinh thành Huế thất thủ (5-7-1885), và sau đó, vua Hàm Nghi xuất bôn, xuống chiếu Cần Vương, trải mấy triều vua, đây là lần đầu tiên triều đình Nhà Nguyễn chính thức đứng lên chống Pháp. Chiếu Cần Vương của Hàm Nghi là tiếng nói của một Nhà nước công khai chống xâm lược, tỏ rõ thái độ dứt khoát và trách nhiệm trước toàn dân. Do đó, khi Chiếu Cần Vương ban bố ra khắp toàn quốc, nó liền được nhân dân hưởng ứng, trước hết là tầng lớp trí thức, - kẻ sĩ - những thân hào, thân sĩ, văn nho, khoa bảng hưởng ứng; họ mang danh hiệu "giúp Vua" vận động nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước!
Cái xóm Thác Đài huyện Tuyên Hóa, chỗ vua Hàm Nghi đóng quân, tuy là một nơi rừng rú hẻo lánh, vẫn là "Kinh đô Cần Vương" của thời đó! Nguyễn Phạm Tuân, tri phủ Đức Thọ, nghe tin kinh đô lọt vào tay giặc, nhà vua xuất bôn, treo ấn từ quan quyết đi tìm vua, được nhà vua cử làm chủ sự Cần Vương, trông coi công việc "giúp vua cứu nước" trên toàn cõi Việt Nam.
Phong trào Cần Vương ngày càng phát triển mạnh, rộng, trong toàn quốc là do nó mang tính chất Nhà Nước kháng chiến, nó có danh chính ngôn thuận, nó là trào lưu chính nghĩa của một ông vua đại diện cho ý chí bất khuất của dân tộc, và, cũng qua đó mà những kẻ sĩ lãnh đạo các địa phương chống giặc cũng mang đậm khí thế, tiết "nghĩa Cần Vương", quên mình vì nước, hy sinh vì dân, như tác giả Lê Quang Thái đã nêu lên trong bài viết của mình.
Đó là một phong trào tự giác khác với những cuộc nổi dậy tự phát trước đó.
Vậy thì, vấn đề Cần Vương chỉ có thể xảy ra khi có lời kêu gọi của chính ông vua đó, của chính Nhà nước đó, triều đình đó yêu cầu nhân dân giúp vua cứu nước.
Giả thiết rằng, vua Hàm Nghi cũng không dám đánh lại Pháp để bảo vệ Tổ quốc độc lập như vua Tự Đức hoặc chịu đầu hàng Pháp như vua Đồng Khánh sau đó, thì lịch sử chống Pháp xâm lược Việt Nam chẳng bao giờ có chiếu Cần Vương, và, dĩ nhiên, cũng chẳng có phong trào Cần Vương có tổ chức, có lãnh đạo từ trung ương xuống, mặc dầu tổ chức ấy chưa thành hệ thống, lãnh đạo ấy không thành công.
Trước Hàm Nghi, không có ông vua nào ra chiếu kêu gọi "trung thần nghĩa sĩ toàn quốc, nghĩa dân hảo hán bốn phương (...) hãy mau mau cùng nhau đứng dậy phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc cứu nước... (2)
Thiết nghĩ, đứng về mặt nhà nước mà nói, chiếu Cần Vương này không khác gì Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này. Cho nên, chúng tôi cho rằng, phong trào Cần Vương nên tính từ khi có chiếu Cần Vương trở về sau, cũng như ngày nay, chúng ta tính toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp phản động cũng tính từ khi Hồ Chủ tịch "phát động" chiến tranh vệ quốc (tháng 12-1946) mà không tính từ ngày 23-9-1945, giặc Pháp gây hấn ở Nam Bộ.
2. Theo tác giả Lê Quang Thái trích dẫn của giáo sư Phan Quang đặt mốc thời gian Cần Vương "tính từ Gia Định thất thủ, nhiều kẻ thân hào trong sáu tỉnh Đồng Nai hiệu triệu quần chúng giúp của để chống đánh kẻ xâm lăng..." thì tôi nghĩ rằng không thể gọi đây là phong trào Cần Vương nếu chúng ta đều đồng ý rằng Cần Vương là tiếng gọi giúp vua cứu nước. Vì sao thế? Xin thưa, vì, suốt trong thời gian Pháp xâm lược ta, kể cả khi mất Nam Bộ rồi lần lượt mất Bắc Bộ, đến mất kinh đô, các đời vua từ Tự Đức đến Dục Đức, Kiến Phước, Hiệp Hòa, không có ông vua nào dám ra mặt đánh Pháp. Đặc biệt là đời vua Tự Đức thì không dám đánh giặc, sợ đánh giặc thì mất ngai vàng. Bản thân Tự Đức đã không kêu gọi ai giúp mà còn chống lại việc nhân dân đứng dậy chống Pháp. Những cuộc nổi dậy của thân hào, quan lại, nhân dân cùng nhau chống Pháp ở Nam kỳ sau khi Gia Định thất thủ là những cuộc nổi dậy tự phát do nỗi đau mất nước, do lòng căm thù giặc chứ không do yêu cầu của vua kêu gọi, mặc dầu giúp vua cứu nước cũng là yêu nước, căm thù giặc sinh ra. Do đó, vấn đề Cần Vương trong giai đoạn vua Tự Đức chưa được đặt ra như một sự kiện lịch sử.
3. Trong khi dẫn Từ Nguyên về ngữ nghĩa "Cần Vương" là giúp vua tác giả Lê Quang Thái còn viện thêm Pháp ngữ, Cần Vương nghĩa là: "Servir le pays à travers le roi" mang định nghĩa: "Phục vụ xứ sở thông qua nhà vua", nó nghiêng về phía người hưởng ứng, người phục vụ, nó tự giới hạn trong phạm vi "nghĩa Cần Vương” mà tác giả nêu lên ở đầu bài.
Ngược lại, chúng tôi muốn bàn với tác giả Lê Quang Thái mở rộng vấn đề Cần Vương ra phía người chủ đạo, phía người xuống chiếu, người kêu gọi Cần Vương thì mới có thể dứt điểm về mốc thời gian lịch sử của phong trào Cần Vương.
Như vậy, theo hướng mở rộng của chúng tôi đề nghị trên đây, thì, câu Pháp ngữ: "Servir le pays à travers le roi" sẽ trở thành: “Servir le pays à l’appel du roi” (phục vụ xứ sở theo lời kêu gọi của nhà vua) mới sát đúng ý niệm và thời điểm Cần Vương trong bối cảnh lịch sử khi vua Hàm Nghi xuống chiếu kêu gọi toàn dân giúp vua cứu nước.
N.T
(TCSH52/11&12-1992)
-------------------
(1) (2) Trích trong bài đã dẫn.
TRẦN ĐÌNH HƯỢU
Chúng ta đều đã biết sự thay đổi đột ngột trong cách đánh giá Tự Lực văn đoàn.
YẾN THANH
Dân tộc học (Ethnologie) là một địa hạt kén người nghiên cứu, bởi bước chân vào đó nếu muốn có kết quả đáng tin cậy, đôi khi phải đánh đổi cả đời người, cả nghiệp bút, chứ không thể “ăn xổi ở thì” với những dự án ngắn hạn.
NGHIÊM DIỄM
Nguyễn Du (1766 - 1820) là nhà văn nổi tiếng nhất của Việt Nam, ông không chỉ sáng tác truyện thơ lục bát chữ Nôm “Kim Vân Kiều Truyện” nổi tiếng trong và ngoài nước, mà còn sáng tác ra một số lượng lớn thơ chữ Hán.
VŨ NHƯ QUỲNH
Khẳng định vai trò đặc biệt của công tác tuyên giáo, Đảng ta đã tập trung xây dựng và phát triển lực lượng tuyên giáo với đầy đủ các lực lượng tinh nhuệ, đủ sức gánh vác nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó.
THÁI PHAN VÀNG ANH
Cùng với sự dịch chuyển liên tục biên giới/ lằn ranh phân định giữa các quốc gia, dân tộc, những vấn đề toàn cầu hóa cũng ngày càng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của nhân loại, đến từng số phận cá nhân.
HOÀNG ĐĂNG KHOA
Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư là truyện ngắn, viết về cuộc sống thì hiện tại tiếp diễn của cư dân vùng sông nước Cà Mau cực Tây Nam Bộ, còn Chúa đất của Đỗ Bích Thúy là tiểu thuyết, sản phẩm hư cấu trên nền cảm hứng về truyền thuyết xưa gắn liền với nhân vật chúa đất Sùng Chúa Đà và sự tích cây cột đá hành quyết ghê rợn nơi cao nguyên Hà Giang cực Đông Bắc Bộ.
TRIỀU NGUYÊN
1. Hiện nay, “vè” là tên của một thể loại, thể loại vè, thuộc văn học dân gian Việt Nam.
MAURICE BLANCHOT
PHAN TRẦN THANH TÚ
Công cuộc Đổi mới đã diễn ra hơn 30 năm trong lòng xã hội Việt Nam với dấu mốc trọng đại là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
HOÀNG THỤY ANH
Dấu ấn, cá tính của nhà văn thể hiện rất rõ trong cách xử lý cốt truyện, khai thác tâm lý nhân vật, sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình tượng,… Và tất cả những yếu tố này còn ít nhiều bị ảnh hưởng, khu biệt bởi đặc trưng văn hóa nơi nhà văn sinh ra.
JONATHAN CULLER
LÊ TỪ HIỂN
PHẠM PHÚ PHONG
Đọc Nguyễn Văn Xuân toàn tập [1] mới có thể nhận diện một cách đầy đủ chân dung ông, không chỉ với tư cách là nhà văn, mà còn là học giả, một nhà Quảng học.
TRẦN THỊ NHƯ NGỌC
Viên Chiếu thiền sư không những là bậc chân tu, còn có tài văn chương xuất chúng. Tất cả những tác phẩm ngài trước tác và để lại cho đến nay chỉ còn Tham đồ hiển quyết, đó là kết tinh từ những hương thơm cỏ lạ, khoe sắc giữa vườn văn học thiền tông Việt Nam.
HOÀNG NHẬT
Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì?
Rồi sông đãi hết
Anh hùng còn chi?
NGUYỄN HOÀN
Nhận định về Trịnh Công Sơn, lâu nay có câu so sánh gần như mặc định: “Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam”.
HÀ VĂN LƯỠNG
Haruki Murakami sinh ra ở Nhật Bản, nhưng lại sống nhiều năm ở nước ngoài, chịu ảnh hưởng khá đậm nét văn hóa phương Tây, trong sáng tác của ông, cùng với những biểu hiện của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, chủ nghĩa hậu hiện đại, những yếu tố vô thức, tâm linh cũng được nhà văn thể hiện trên các bình diện khác nhau.
Li-Hsiang Lisa Rosenlee, sinh năm 1968, hiện là Giáo sư Triết học ở Đại học Hawaii - Hoa Kỳ, lĩnh vực nghiên cứu chính của bà là Triết học nữ quyền, Đạo đức và triết học Trung Quốc thời cổ đại.