NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng (1921 - 1988).
Ảnh: internet
Lúc đầu bài thơ này được tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến, đến khi in lần đầu tiên ở tập Mây đầu ô1 mới được đổi thành Tây Tiến. Nhiều tài liệu đều xác định Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947 nhằm phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào, hoạt động tại Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa, Sầm Nưa (Lào). Nhan đề Nhớ Tây Tiến có lý do của nó, vì bài thơ được sáng tác vào năm 1948 khi Quang Dũng đã không còn ở đơn vị cũ (Tây Tiến), chuyển đến đơn vị mới tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây). Tình cờ, tôi đọc được bài thơ này qua bút tích của chính tác giả Quang Dũng chép trong một cuốn sổ tay cũ của cha tôi - nhà thơ Hải Bằng; (Cuốn sổ tay ấy còn có nhiều bút tích của các tác giả khác như Phùng Quán, Phạm Khoa Văn, Phạm Tiến Duật, Vương Trọng, Cảnh Trà, Thanh Hải, v.v). Ở bản bút tích của Quang Dũng, bài thơ có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến - 1947”2.
![]() |
Bút tích bài thơ “Nhớ Tây Tiến - 1947” của Quang Dũng |
Xưa nay, chúng ta đều tiếp nhận bài thơ theo nội dung ở bản in lần đầu như đã nói, ở các công trình nghiên cứu được xuất bản. Từ năm 1990 bài thơ này đã được đưa chương trình giáo dục. Hiện nay, học sinh lớp 12 học và phân tích ngữ văn bài thơ này trong sách Ngữ văn3.
Tất cả các bản in lại bài thơ dường như đều có một sự thống nhất chung về câu cú, từ ngữ, chính tả, không có sự khác biệt nào. Tuy vậy, ở bản chép tay này có một số chi tiết khác biệt so với các bản in đó. Một số chi tiết khác biệt ấy cũng không có gì để bàn luận vì so với bản bút tích, các bản in ấy đã thể hiện một quy tắc chuẩn chính tả mà thôi. Ví như “Anh bạn rãi rầu” (bản bút tích) thành “Anh bạn dãi dầu” (bản in); “Nàng E ấp” thành “nàng e ấp”, “Nhạc về Viên Chiên” thành “Nhạc về Viên Chăn”, v.v.
Điều đáng nói là giữa hai bản này có 03 chữ khác biệt rất quan trọng vì liên quan đến ngữ nghĩa câu thơ và ý tứ tác giả. Dưới đây là so sánh và phân tích qua các câu có từ khác biệt:
- Khác biệt 1: Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi (bản bút tích) sẽ hoàn toàn khác với Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người (bản in). Ở đây có sự khác biệt giữa trêu ngươi và trêu người.
Dẫn lại dòng thơ: Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi. Dòng thơ miêu tả cảnh núi rừng hùng vĩ, uy linh của đại ngàn gắn với không gian và thời gian tâm trạng của con người. Theo bản in là “cọp trêu người” (đùa giỡn với người) là có gì đó chưa đúng. Cọp vốn dĩ hung dữ, là nỗi kinh sợ của con người và đại ngàn. Hơn nữa, trên thực tế làm gì có chuyện cọp trêu đùa với người, mà chỉ có thể trở thành nỗi khiếp đảm kinh hoàng của con người mà thôi. Trong khi đó, bản bút tích là “cọp trêu ngươi” (khiêu khích chọc tức), do đó, “trêu ngươi” ở đây hợp lý không chỉ về ngữ nghĩa mà còn hợp lý về cả thanh điệu câu thơ.
- Khác biệt 2: Mai Châu mùa em thơm nếp sôi (bản bút tích) sẽ hoàn toàn khác với Mai Châu mùa em thơm nếp xôi (bản in). Ở đây có sự khác biệt giữa sôi và xôi.
Dẫn lại dòng thơ: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói / Mai Châu mùa em thơm nếp sôi. Rõ ràng ở bản bút tích chữ “sôi” là hợp với tình ý với mạch câu thơ hơn là “xôi”. “Thơm nếp sôi” sẽ bắt cùng hình ảnh trên là “cơm lên khói”. Sôi là vừa một động từ vừa là một tính từ chỉ trạng thái (đang sôi lên) mới khiến dậy lên được cái mùi nồng nàn của “thơm nếp”. Còn “thơm nếp xôi” thì “xôi” là một danh từ, vô hình trung tạo nên nét dư không cần thiết trong thơ. Tập quán định danh sự vật ở đây thường có các cách gọi: cơm nếp, hoặc xôi mà thôi. Chữ “sôi” trong ngữ cảnh này, Quang Dũng sử dụng là đúng như nghĩa của nó, không phải nhầm lẫn về ngữ âm kiểu dãi dầu - rãi rầu (trong bài) hay kiểu trăng - giăng, nhảy nhót - nhẩy nhót, v.v. trong tập quán chính tả của phương ngữ Bắc bộ. Hơn nữa, trên thực tế, tập quán chính tả của người miền Bắc chỉ có thể nhầm từ sum họp thành xum họp, chia sẻ thành chia xẻ khi viết, nghĩa là /s/ bị nhầm thành /x/, không có trường hợp ngược lại (/x/ bị nhầm thành /s/). Do đó, thơm nếp sôi, trong đó “sôi” là một động từ và là tính từ với một hiển ngôn rõ ràng của Quang Dũng hướng đến.
Do vậy, cả 4 dòng thơ trên thiết tưởng cũng cần đính chính lại để diễn trúng ý của tác giả và tình ý của bài thơ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi (không phải người)
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp sôi (không phải xôi)
- Khác biệt 3: Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm (bản bút tích) sẽ hoàn toàn khác với Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm (bản in). Ở đây có sự khác biệt giữa Kiều viết hoa và kiều không viết hoa.
Dẫn lại dòng thơ: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới / Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm. Ở đây, bản bút tích Quang Dũng đã ghi một chữ Kiều viết hoa. Mà sau đó, trong bản in vì chữ kiều được nhận thức là không viết hoa nên sách giáo khoa đã giải thích như sau: “Dáng kiều thơm: dáng vẻ xinh đẹp, đáng yêu của người con gái”4. Rõ ràng sự khác biệt giữa Kiều viết hoa và kiều không viết hoa đã khiến ngữ nghĩa câu thơ khác biệt hoàn toàn.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội với thành phần chủ yếu là thanh niên, sinh viên, học sinh Hà Nội. Chiến đấu xa nhà, trong muôn ngàn gian khổ, nhất là trong cơn sốt rét dày vò đến nỗi da “xanh màu lá” ấy vẫn kiêu bạt, phóng mắt từ bên kia biên giới Lào để “trừng gửi mộng” về một Hà Nội hào hoa; để mơ một “dáng Kiều thơm” hư tan trong ký ức. Đó là một nàng Kiều bước ra từ sách vở, một giai nhân qua chữ nghĩa, một hư ảnh đẹp đẽ của thuở thiếu thời, một mộng tưởng dậy thì đằm sâu, chợt gợi thức từ chiêm cảm. Vậy nên, “dáng Kiều thơm” đó là chỉ hiện thân của cái đẹp tượng trưng, chỉ gọi tên mà không định được danh5 mà thôi. Đó chính là sự lãng mạn “tìm quên” để nguôi ngoai khốn khó, nguôi ngoai bệnh tật dày vò từ cảnh huống. Lại nữa, cái gọi là thơm trong “dáng Kiều thơm” không còn là mùi vị được cảm nhận qua khứu giác mà đó là dư vị từ cảm thức của tri giác, dư hương được rút ra từ câu chữ: Cảo thơm lần dở trước đèn chăng? Vậy nên chỉ một chữ Kiều viết hoa mà tình ý thi ca đã cách biệt nhường nào!
Đọc và cảm nhận Tây Tiến không khó để nhận ra ảnh tượng chinh nhân, tha hương bước từ huyền thoại. Không khí cổ trang được gợi nhắc toàn bộ bài thơ “gập ghềnh, khúc khuỷu, heo hút” theo mạch cảm xúc. Sự kết dính thấy được của hàng loạt từ ngữ do thi sĩ cố ý dựng lên để thành huyền thoại: hội đuốc hoa - xiêm áo - nàng - chiều sương - hồn lau - đoàn binh - dữ oai hùm - gửi mộng - dáng Kiều - mồ viễn xứ - áo bào - hen ước, v.v. Đó là sự trải nghiệm chữ nghĩa thuở đèn sách, phải chăng trải nghiệm đó bắt nguồn hình ảnh chinh nhân?
- Những người chinh chiến bấy lâu
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây;
- Ngập ngừng gió thổi áo bào,
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông;
- Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca, v.v.
(Chinh Phụ ngâm)
Hình ảnh Mồ viễn xứ nói tỉnh như không trong Tây Tiến khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh Nhẹ xem tính mệnh trong Chinh Phụ ngâm; hình ảnh Áo bào thay chiếu khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh Gió thổi áo bào; hình ảnh Người đi không hẹn ước khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca. Dường như đó là sự đồng vọng của cảm thức. Rõ ràng, từ ngữ đó gần gũi, dan díu với cảm thức thẩm mỹ trung đại bắt rễ từ những “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt / Xếp bút nghiên theo việc đao cung” (Chinh phụ ngâm) đồng vọng bóng chinh nhân.
Vẻ đẹp của bài thơ rốt cục là cái tình thật của người lính, lãng mạn trước hiện thực khắc nghiệt, chất chứa khúc tráng ca từ ký ức chợt phút chốc dậy lên, xô lệch cả không gian và thời gian tuyến tính.
Hy vọng, những chữ khác biệt và phân tích trên sẽ được người yêu thơ, đặc biệt là các nhà soạn sách giáo khoa quan tâm để nếu có thể “đính chính” lại văn bản bài thơ “Tây Tiến”, góp phần minh định nội dung tác phẩm.
Huế, vào hạ 2021
N.P.H.T
(TCSH387/05-2021)
----------------
1. Quang Dũng, Mây đầu ô, tập thơ, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1986
2. Ngoài bài “Nhớ Tây Tiến - 1947”, trong cuốn sổ này Quang Dũng còn có chép bài “Trưa hè” đề năm sáng tác là 1960.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngữ văn 12, tập một, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 87-89.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngữ văn 12, sách đã dẫn, tr.88.
5. Cũng có thể định được danh ở đây. Trong bài viết “Con gái nhà thơ Quang Dũng và những hồi ức về cha” đăng trên Tiền Phong (27/02/2017), có đoạn nói rằng chữ Kiều trong bài Tây Tiến chính là “mượn” từ tên nghệ sĩ diễn kịch Giáng Kiều (tên thật là Kiều Dinh), một trong 4 chị em đẹp nhất ở phố Hàng Bông (Hà Nội) vào những năm 1940.
TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.
ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!
ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)
MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.
NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.
VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.
Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.
CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.
ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.
HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.
FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.
ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.
PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.
NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.
TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.