LỖ TẤN
Nói đến đọc sách, tựa hồ đó là một việc rất rõ ràng, chỉ cầm đem sách ra đọc là được rồi. Nhưng không hề đơn giản như vậy.
Văn hào Lỗ Tấn - Ảnh: internet
Ít nhất là có hai kiểu: một là đọc sách vì công việc, và hai là đọc sách vì sở thích. Gọi là đọc sách vì công việc, ví dụ như học sinh vì phải lên lớp, giáo viên vì phải giảng bài, nếu không mở sách ra đọc thì sẽ khá nguy hiểm. Tôi nghĩ, trong các bạn đang ngồi ở đây, nhất định có một số bạn có kinh nghiệm thế này: có người không thích toán, có người không thích vật lý, nhưng không thể không học được, nếu không, sẽ không thể hoàn thành chương trình, không thể lên lớp, và nó sẽ phương hại đến sinh kế tương lai của các bạn. Bản thân tôi cũng như vậy. Vì tôi làm thầy giáo, nên cũng có lúc không thể không đọc loại sách mà mình không thích, nếu không như vậy, chỉ e rằng không bao lâu sẽ ảnh hưởng ngay đến bát cơm của mình. Chúng ta đã thành thói quen, cứ nói đến đọc sách, bèn cảm thấy đó là một việc rất cao thượng, kỳ thực việc đọc sách như thế này, cũng chẳng khác gì việc một ông thợ mộc mài lưỡi cưa, ông thợ may sửa kim chỉ cả. Chẳng những không có gì là cao thượng, mà có khi còn rất đau khổ, rất đáng thương. Việc bạn muốn làm, thì lại không cho bạn làm, còn việc bạn không muốn làm, thì lại không làm không được. Đó là vì giữa công việc và sở thích không thể hợp nhất được lại với nhau. Nếu như mọi người đều có thể làm những việc mà mình yêu thích, mà ai nấy vẫn có cơm ăn, thì hạnh phúc biết bao. Song, xã hội hiện nay còn chưa làm như vậy được, cho nên phần lớn những người đọc sách hầu như chỉ là đọc một cách miễn cưỡng và đau khổ vì công việc của mình mà thôi.
Bây giờ, tôi xin nói đến việc đọc sách vì sở thích. Đó là việc xuất phát từ tự nguyện, không hề bắt buộc, tách rời hoàn toàn khỏi những quan hệ lợi ích. Tôi nghĩ, việc đọc sách vì sở thích, cũng giống như người mê bài bạc vậy, ngày nào cũng chơi, tối nào cũng chơi, liên tục chơi, có khi bị cảnh sát bắt rồi, nhưng sau khi được thả ra lại tiếp tục chơi. Các bạn nên biết rằng, một người thực sự mê bài bạc thì mục đích của họ không phải ở kiếm tiền, mà ở cái thú của bài bạc. Bài bạc thì có cái thú thế nào, tôi là người ngoại đạo, cũng không hiểu lắm. Nhưng tôi có được nghe những người mê bài bạc nói, nó lý thú ở chỗ từng lá từng lá bài anh bốc lên, đều luôn biến hóa vô cùng. Tôi nghĩ, phàm những người mê đọc sách, có thể tay không rời quyển sách, thì nguyên nhân cũng là như vậy. Trong mỗi một trang sách, anh ta đều thấy một thú vị vô cùng sâu sắc. Tất nhiên, nó cũng có thể giúp mở mang tinh thần, tăng thêm tri thức nữa. Nhưng tôi không đề cập đến những điều này, vì nếu tính đến những điều ấy, thì cũng giống như những con bạc có ý định ở việc kiếm tiền rồi, việc này, trong đám con bạc mà nói, thì cũng bị coi là hàng hạ phẩm.
Nhưng, ý tôi, hoàn toàn không phải là khuyên các bạn nên bỏ học, để đi đọc những cuốn sách mà mình thích đọc. Thời điểm ấy còn chưa đến. Cũng có thể trước sau không bao giờ đến, mà nhiều nhất chỉ là, sau này có thể tìm cách khiến cho mọi người nảy sinh thêm nhiều hơn hứng thú với những việc mình không làm không được mà thôi. Tôi đang nói rằng, các bạn thanh niên thích đọc sách, rất có thể đọc thêm những cuốn sách ngoài những cuốn bổn phận phải đọc của mình, tức là những cuốn ngoài sách học ở trường, chứ không phải chỉ có ôm chặt lấy những cuốn giáo khoa. Nhưng xin chớ hiểu lầm, tôi không hề nói rằng, tỷ như trong giờ ngữ văn, nên đọc trộm những cuốn như “Hồng lâu mộng” giấu dưới ngăn bàn. Mà là nói rằng, trong lúc rảnh rỗi sau khi đã làm xong bài tập, các bạn có thể đọc xem các loại sách khác, dù rằng có cuốn không liên quan gì đến chuyên môn của mình cả, cũng nên rộng đọc. Ví như người học Vật Lý, thì nên đọc thêm sách văn học, người học Văn Học, thì nên đọc thêm sách khoa học, xem xem những nghiên cứu của người khác về lĩnh vực ấy rốt cuộc là như thế nào. Như vậy, thì với những người khác, việc khác, có thể có những hiểu biết sâu hơn. Trung Quốc hiện nay có một cái tật rất lớn, đó là người ta hầu như đều cho rằng những gì mà mình học mới là thứ học vấn hay nhất, tuyệt nhất, quan trọng nhất, còn những cái khác đều vô dụng, đều không đáng để nói. Những người làm những việc không đáng để nói ấy, rồi tương lai tất chết đói. Kỳ thực là, thế giới không hề giản đơn như vậy, thứ học vấn nào cũng đều có chỗ dùng của nó, muốn xác định xem cái nào mới là hàng đầu là rất khó. Cũng may rằng, chúng ta có đủ mọi kiểu người, chứ giả như trên thế giới tất cả đều là nhà văn, chỗ nào cũng chỉ thấy nói đến nếu không phải là “phân loại văn học” lại là “cấu tạo của thơ”, thì không biết sẽ vô vị đến đâu.
Nhưng những điều tôi vừa nói trên, chỉ là những hiệu quả kèm theo có được mà thôi. Khi đọc sách theo sở thích, thì bản thân người ta tự nhiên không tính toán đến những cái đó, cũng giống như đi chơi công viên vậy, cứ thoải mái mà đi, vì thoải mái đi, cho nên không thấy mệt, vì không thấy mệt, cho nên cảm thấy thú vị. Nếu như một quyển sách cầm đến tay, mà trong lòng luôn nghĩ rằng, “Mình đang đọc sách đây!”, “Mình đang ra sức đây!”, như vậy sẽ rất dễ mệt mỏi, và vì thế mà giảm mất cả thú vị, hoặc giả sẽ biến thành một việc khổ sở.
Tôi thấy thanh niên ngày nay, vì hứng thú mà đọc sách là có, và tôi cũng luôn luôn gặp những câu hỏi khác nhau của họ. Bây giờ, tôi xin nói một chút về những điều suy nghĩ của mình, nhưng chỉ giới hạn ở phương diện văn học, bởi vì tôi không hiểu lắm về những lĩnh vực khác.
Thứ nhất, là chúng ta thường không có sự phân biệt rõ giữa văn học và văn chương. Thậm chí có người đã bắt tay vào làm công việc phê bình văn chương, cũng không tránh khỏi lỗi ấy. Thực ra, nói một cách đại khái, cái này rất dễ phân biệt. Những người nghiên cứu về lịch sử hay lí luận văn chương, là những nhà văn học, nhà nghiên cứu; Còn những người làm thơ, viết kịch, tiểu thuyết, là những người làm văn chương, mà như thời xưa vẫn nói là văn nhân, và bây giờ thì gọi là nhà sáng tác. Nhà sáng tác không hiểu chút nào về văn học sử hay lý luận văn học cũng không hề gì cả, và nhà văn học không làm nổi một câu thơ cũng không sao. Thế nhưng trong xã hội Trung Quốc vẫn hiểu rất sai lầm rằng, anh viết được mấy thiên truyện ngắn, thì liền cho rằng anh nhất định phải hiểu được khái luận về tiểu thuyết, làm được mấy câu thơ mới, liền muốn anh phải nói về nguyên lý của thơ. Tôi cũng thường gặp những bạn thanh niên muốn viết tiểu thuyết, bèn trước tiên đi mua sách về cách thức viết tiểu thuyết và lịch sử văn học để đọc. Cứ như tôi thấy thì, dẫu các bạn ấy có đọc nát mấy cuốn sách đó, cũng không có tác dụng gì với việc sáng tác của các bạn ấy cả.
Trên thực tế, hiện nay cũng có một số người làm văn chương, có khi cũng đi làm thầy giáo. Nhưng đó là bởi vì công việc sáng tác ở Trung Quốc không kiếm ra tiền, không nuôi nổi bản thân mình. Nghe nói, những tiểu thuyết gia ở Mỹ viết một truyện vừa, cũng có giá tới hai ngàn Mỹ kim. Còn Trung Quốc, người khác tôi không biết thế nào, chứ bản thân tôi thì truyện ngắn gửi tới nhà sách lớn, mỗi truyện được trả hai mươi đồng. Vì thế đương nhiên, phải tìm một việc khác, ví dụ như làm thầy giáo, diễn giảng văn học. Nghiên cứu thì phải dùng đến lý trí, phải bình tĩnh lạnh lùng, còn sáng tác thì cần tình cảm, chí ít cũng phải có chút lửa nóng, và thế là chợt nóng chợt lạnh, làm cho đầu óc quay cuồng - Đó cũng là nỗi khổ của vấn đề công việc và sở thích không thể hợp làm một vậy. Nếu chỉ có khổ thì cũng coi như thôi không nói nữa, nhưng kết quả còn là chẳng việc gì làm được ra hồn cả. Chứng cứ của nó là, các bạn thử giở lịch sử văn học thế giới ra xem, những người trong đó, cơ hồ chẳng có ai là kiêm làm giáo viên cả.
Lại còn một cái hỏng nữa, ấy là khi đã làm giáo viên rồi, không tránh khỏi sẽ có những chỗ tránh né. Giáo viên phải có khuôn khổ của giáo viên, không thể tùy ý nói những điều mình muốn nói. Nói như vậy, có thể sẽ có người phản bác rằng: Vậy ông cứ thoải mái nói những điều mình muốn nói là được rồi, hà tất phải cẩn trọng như thế. Nhưng đó chỉ là những câu nói cho có khi chưa vào việc mà thôi, một khi xảy ra việc rồi, tự nhiên kẻ ấy cũng sẽ theo số đông mà công kích anh vậy. Mặt khác, bản thân người thầy giáo, dẫu rằng có tự cho mình phóng khoáng đến mức nào, thì trong ý thức rốt vẫn không tránh khỏi luôn có một khuôn khổ. Cho nên, ở nước ngoài, những cái gọi là “Tiểu thuyết giáo sư” cũng không ít, nhưng không có mấy ai khen hay, ít ra là nó luôn khó tránh khỏi có những chỗ khoe khoang học thức khiến người ta chán ớn.
Cho nên, tôi nghĩ rằng, nghiên cứu văn học là một việc, còn làm văn chương lại là một việc khác.
Thứ hai, tôi thường được hỏi rằng: Muốn làm về văn học, thì nên đọc sách gì? Đây thực sự là một câu hỏi rất khó trả lời. Trước đây cũng có mấy vị tiên sinh đã kê ra danh mục dài một loạt các loại sách cho thanh niên đọc. Nhưng cứ như tôi thấy, cái đó không hề có tác dụng gì, bởi vì tôi cảm thấy đó đều là những cuốn sách mà bản thân vị tiên sinh kê danh mục sách ấy muốn đọc, hoặc giả chưa hẳn đã muốn đọc. Tôi cho rằng, nếu muốn theo cách cũ, thì chẳng gì bằng tạm căn cứ vào “Thư mục vấn đáp” của Trương Chi Động mà đi tìm theo. Còn nếu muốn theo cách mới, nghiên cứu văn học, thì tự mình trước hết hãy đọc các loại sách sổ tay, như “Khái luận Văn học mới” của Honma Hisao, “Biểu tượng của sầu khổ” của Kuriyagawa Hakuson, “Luận chiến văn nghệ Nga Xô” của Voronsky, sau đó hãy tự mình thử suy nghĩ, mà tiếp tục đọc rộng thêm. Bởi vì, lý luận của văn học không giống như toán học, hai lần hai nhất định là bốn, cho nên chúng rất trái khác nhau. Như cuốn sách thứ ba kể trên, chính là tranh luận giữa hai phái văn chương của Nga, - tôi xin nói thêm một câu, gần đây nghe nói, đến tiểu thuyết của Nga cũng không có mấy người xem, dường như cứ thấy một chữ “Nga” là giật mình, kỳ thực những sáng tác mới của Nga Xô đã từng có ai giới thiệu đâu, hiện nay có mấy cuốn được dịch in, thì đều là những tác phẩm trước cách mạng, mà tác giả của nó ở bên nước ấy đều đã bị coi là phản cách mạng rồi. Nếu muốn thử đọc những tác phẩm văn nghệ, thì trước hết nên đọc những cuốn tuyển chọn của các danh gia, từ đó cảm thấy tác phẩm của ai khiến bản thân mình thích đọc nhất, rồi sau sẽ tìm đọc tập riêng của tác giả đó, tiếp theo nữa lại từ lịch sử văn học xem xem vị trí lịch sử của tác giả ấy. Nếu như muốn biết một cách tường tận, thì xem một vài cuốn truyện ký của người ấy, là có thể hiểu rõ được đại lược rồi. Nếu chuyên chỉ có đi hỏi người khác, thì mỗi người có một sở thích khác nhau, rốt sẽ chỉ là ông chẳng bà chuộc vậy.
Thứ ba, tôi xin nói mấy câu về việc phê bình. Hiện nay, vì các xuất bản phẩm quá nhiều, - kỳ thực là có bao nhiêu đâu, nhưng vì độc giả không khỏi có chỗ phân vân, bèn trông đợi ở việc phê bình, vì vậy mà các nhà phê bình cũng được dịp nổi lên. Cái gọi là phê bình này, đối với độc giả, chí ít là những độc giả tương cận với tôn chỉ của nhà phê bình ấy, là hữu dụng vậy. Nhưng ở Trung Quốc hiện nay, nhẽ nên tạm thời có một cách nói khác. Thường thường có người nhầm tưởng rằng, nhà phê bình nắm quyền sinh sát với việc sáng tác, chiếm vị trí tối cao trong văn đàn, vì vậy anh ta bèn bỗng nhiên biến thành nhà phê bình. Trên linh hồn anh ta đã treo một cây đao. Nhưng sợ rằng lập luận của mình còn chưa kín kẽ, thì anh ta bèn chủ trương chủ quan. Cũng có lúc anh ta sợ quan sát của mình người khác không coi trọng, thì lại chủ trương khách quan. Có lúc anh ta nói bài viết của mình căn bản là hoàn toàn đồng tình, có lúc lại đem người bị phê bình mắng nhiếc đến không còn đáng một đồng. Phàm những bài viết phê bình của Trung Quốc, tôi càng xem càng thấy mơ hồ, nếu như cho nó là thật, thì sẽ không còn lối nào mà đi nữa. Người Ấn Độ đã sớm biết việc này, nên có một câu chuyện ví dụ rất phổ biến, thế này: Có một ông già cùng đứa con trai dắt theo một con lừa chở hàng đi chợ bán. Bán hàng xong, đứa con cưỡi lừa về, còn ông già đi theo sau. Người đi đường bèn trách cứ người con, rằng không có hiểu biết gì, để cho ông già tuổi cao phải đi bộ. Hai người họ bèn đổi chỗ cho nhau, người cha cưỡi lừa, người con đi bộ. Nhưng người đi đường lại nói ông già nhẫn tâm, bắt con đi bộ. Ông già vội đỡ cả đứa con cùng lên yên ngồi. Người đi đường trông thấy thế lại nói rằng cha con ông tàn ác, kéo cả hai người lên lưng con lừa. Vì vậy hai cha con ông già lại cùng nhau xuống đi bộ cả. Đi chưa được bao lâu, thì lại thấy có người chê cười họ, bảo họ ngốc nghếch, để con lừa đi không mà không cưỡi. Thế là, ông già đành quay sang than thở với đứa con rằng: Chúng ta chỉ còn mỗi một cách thôi, đó là hai cha con ta khiêng con lừa này mà đi! Bất luận là đọc, hay là viết, nếu như lại đi hỏi ý hết người nọ người kia, thì kết quả cuối cùng thường sẽ là khiêng lừa mà đi vậy.
Nhưng tôi hoàn toàn không phải là muốn mọi người không đọc phê bình, chỉ là nói rằng, sau khi đọc rồi, vẫn phải tự mình đọc cuốn sách ấy, tự mình suy nghĩ, tự mình làm chủ. Đọc các loại sách khác cũng vậy, vẫn phải tự mình suy nghĩ, tự mình quan sát. Nếu chỉ đọc sách, sẽ biến thành một cái tủ sách, dẫu cho tự mình cảm thấy thú vị, nhưng thú vị ấy kỳ thực đã dần dà trở nên khô cứng, dần dà chết đi rồi. Trước đây, tôi từng phản đối việc các bạn thanh niên ẩn mình vào trong các phòng nghiên cứu, chính là vì ý này. Đến nay, có một số học giả, vẫn còn đem câu nói ấy coi là một tội trạng của tôi đấy.
Nghe nói, ông Bernard Shaw ở nước Anh, có nói một câu với ý thế này: Thứ tệ nhất trên thế gian này là những kẻ đọc sách. Bởi vì, họ chỉ biết xem tư tưởng nghệ thuật của người khác, mà không dùng cái của chính bản thân mình. Đó cũng chính như Schopenhauer nói là: để kẻ khác phi ngựa trong não mình. Khá hơn một chút là những người suy nghĩ. Bởi vì, họ có thể dùng sức sống của chính bản thân mình, nhưng vẫn không tránh khỏi có những điều nghĩ suông. Cho nên, tốt hơn cả là những người quan sát, họ dùng con mắt của chính mình để đọc bộ sách sống của thế gian này.
Câu ấy rất chính xác, kinh nghiệm thực tế luôn đúng đắn hơn nhiều so với đọc, nghe, hay nghĩ suông. Trước đây tôi đã từng ăn trái vải khô, trái vải đóng hộp, trái vải đã qua nhiều năm, và từ những thứ này suy tưởng về những trái vải tươi. Đến nay, sau khi đã ăn rồi, thì thấy nó hoàn toàn khác với những điều tôi đã suy tưởng. Nếu như tôi không đến Quảng Đông mà ăn trái vải tươi, thì vĩnh viễn tôi sẽ không biết điều ấy. Nhưng đối với câu nói của Shaw, tôi vẫn muốn có thêm một lời bàn trung lập. Vì Shaw là người Ái Nhĩ Lan, lập luận của ông không tránh khỏi có chút chưa thỏa đáng. Tôi cho rằng, giả như tìm lấy một người quê mùa chưa từng trải ở Quảng Đông, bảo anh ta đi từ Thượng Hải đến Bắc Kinh, hoặc một nơi nào đó, sau đó hỏi xem anh ta quan sát được những gì, thì e những điều anh ta quan sát được sẽ rất hạn chế, bởi vì anh ta chưa từng rèn luyện qua kỹ năng quan sát. Cho nên, muốn quan sát, thì trước tiên vẫn phải trải qua quá trình suy nghĩ và đọc sách.
Tóm lại, ý tôi rất đơn giản: Chúng ta hãy tự mình đọc sách, tức là đọc sách như một sở thích, thỉnh giáo người khác đại để sẽ chẳng tác dụng gì, chỉ nên trước tiên đọc rộng rãi nhiều thể loại, sau đó chọn lựa và đi vào một hoặc vài lĩnh vực tương đối chuyên sâu mà mình yêu thích. Nhưng, chuyên chỉ đọc sách cũng có tệ bệnh của nó, vì vậy tất yếu phải tiếp xúc với hiện thực xã hội, khiến cho những cuốn sách mà mình đọc được sống trở lại.
Châu Hải Đường dịch
(TCSH363/05-2019)
THU TRANG (Pháp)Vài tháng nay ở Pháp đã rộn ràng xảy ra nhiều chuyện đáng để chúng ta suy nghĩ. Có lẽ trước hết là việc chiếc tàu Erika chở dầu đã bị vỡ hầm chứa ngoài khơi, biển Bretagne vùng Tây nước Pháp. Một đại nạn! Dầu đã bị sóng đưa vào bờ làm đen bẩn hầu hết các bờ biển, bãi tắm nổi tiếng.
NGUYỄN VĂN DŨNGSakuya là vị nữ thần cực kỳ xinh đẹp của xứ mặt trời mọc. Nàng là người đầu tiên tự tay gieo hạt giống cây anh đào trên núi Phú Sĩ. Mùa xuân hoa anh đào nở, đẹp cái đẹp lộng lẫy mê hồn của nàng. Bởi thế, người Nhật gọi hoa anh đào là Sakura - đọc trại từ Sakuya. Ngày nay, hoa anh đào đã có nhiều loại và mọc nhiều nơi, nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa anh đào ở núi Phú Sĩ.
VŨ LÊ THÁI HOÀNGTrong ánh nắng vàng rực tuyệt đẹp, giữa một New York hối hả, tấp nập, tua tủa nhà chọc trời, kiêu hãnh hiện ra bóng hình một phụ nữ khổng lồ tay cầm ngọn đuốc cháy sáng soi đường vào Tân Thế Giới.
ĐẶNG THỊ HẠNHMùa rét năm ấy ở Paris đã không có tuyết. "Một điều rất đặc biệt", ông Xuân Thủy nói với tôi như vậy khi tôi đi dạo với ông trong khu vườn bao quanh một cơ quan của Đảng Cộng sản Pháp dành riêng cho phái đoàn thương lượng của ta ở Paris .
HÀ PHẠM PHÚTôi chọn cái tựa trên cho bài viết một phần vì tôi bị ám ảnh bởi bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ của Kim Dung và bài của Quách Phong, một nhà nghiên cứu trẻ công tác tại đài phát thanh truyền hình châu Đại Lý - viết về chuyến thăm Đại Lý của nhà văn rất nổi tiếng này.
VÕ QUANG YẾNNúi cao cũng có đường trèo,Đường đi hiểm nghèo cũng có lối di. Ca dao
VÕ QUANG YẾNNguyễn Hải Đang, 20 tuổi xuân xanh, xúng xính trong bộ y phục mới tinh trường Bách Khoa Ecole Polytechnique, thường được gọi tắt là X.
NGUYỄN VĂN DŨNGKathmandu là kinh đô của vương quốc Nepal, nằm dưới chân Hy mã Lạp sơn. Là thành phố của tôn giáo và nghệ thuật, của nghi thức và lễ hội, của cổ kính và hiện đại, của thánh thiện và tâm linh, của suy tư và khát vọng, của du lịch và mộng mơ, của nắng gió và tuyết. Ngày nay, Kathmandu còn là thành phố của thanh bình và chiến tranh.
PHẠM THỊ ANH NGABài này nhằm giới thiệu một vài nét về diện mạo thi ca Pháp và một số hoạt động liên quan đến thơ trong xã hội Pháp những năm gần đây.
ĐINH CƯỜNGViện Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg, Paris vừa chấm dứt cuộc triển lãm qui mô, hàng trăm bức tranh của một họa sĩ lẫy lừng, bi thảm nhất thế kỷ hai mươi: Amedeo Modigliani.
ĐẶNG TIẾNNước Pháp có những thành phố nhỏ, lừng danh nhờ một sinh hoạt văn hoá. Ví dụ như Cannes, Deauville với những Đại Hội Điện Ảnh. Hay Angoulême nổi tiếng từ 30 năm nay với truyền thống Festival Quốc Tế Truyện Tranh BD, do chữ Bande Dessinée viết tắt, có nghĩa là băng hoạt họa (strip cartoon). Thành phố lịch sử với năm vạn dân, cách Paris hơn 400 km về phía Tây Nam, từ ngày 23 đến 26 tháng 1-2003, trở thành trung tâm thế giới về nghệ thuật Truyện Tranh BD, lần thứ 30.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Ghi chépMột chiều cuối đông năm ngoái tại góc Quán Cũ 25 Phan Đình Phùng, khi biết chúng tôi chuẩn bị chuyến khảo sát văn hóa tại Nhật Bản, giáo sư Đại học ngoại ngữ Tokyo Kawaguchi đề nghị chúng tôi nên bố trí kế hoạch đến Nhật vào mùa xuân để còn kịp ngắm hoa anh đào. Y lời, đúng ngày mở đầu tháng Tư năm nay, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, Viện trưởng Viện Văn học và tôi lên đường công du sang Nhật khi biết chắc hoa anh đào đã nở.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Ghi chép Truyền thống trong hội nhập...Rời xe bus số 64 chúng tôi rảo bộ trên con đường lát đá tảng của phố Della Concilia Zionli giữa hai hàng cột đá trông như những ngọn nến khổng lồ để đến với nơi mà bất kỳ người dân công giáo nào cũng hằng mơ ước.
NGUYỄN VĂN DŨNG KýSau gần nửa tháng rong chơi suốt hai đầu thượng hạ Ai Cập, tôi trở lại Paris chuẩn bị chuyến du hành sang Hy Lạp. Bỗng được tin của Văn Cầm Hải từ quê nhà: “Thầy về gấp. Đi Tây Tạng ngày 15/9”. Tôi quyết định ngay. Lúc ấy tôi không hiểu vì sao. Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao.
NGUYỄN VĂN DŨNGTôi mới có ý định leo núi Phú Sĩ trên đường từ Tokyo về cố đô Kyoto. Chiếc tàu siêu tốc chạy ngang qua vùng núi Fuji. Bên ngoài, trông Fuji hùng vĩ và đẹp hơn trong ảnh nhiều. Trên nền xanh thẳm của Công viên Quốc gia Fuji-Hakone-Izu, hai cánh núi từ tít tắp hai đầu Bắc Nam như đôi tình nhân thiên thu gặp lại, tràn về phía nhau. Và khi gặp nhau, cả hai hoà thành một, rồi bay vút lên trời, xuyên qua mấy tầng mây, để lộ giữa thinh không cao ngút cái chỏm mĩ miều như đầu ngọn bút lông.
TRẦN LỘC HÙNG1. Bạn bè tôi thường nói: “Không hiểu nước Nga nuôi mày kiểu gì mà tới bây giờ mày vẫn yêu nước Nga”. Vợ con tôi cũng vậy. Nước Nga dưới con mắt của những người thân của tôi hoàn toàn khác tôi. Đơn giản vì tôi đã tới nước Nga từ những năm tôi mới 17 tuổi, hơn nữa tôi đã sống, học tập và làm việc ở nước NGA ngót nghét 10 năm.
NGUYỄN VĂN DŨNG Bút kýChuyện kể rằng, vào một ngày tuyết trắng Tây kinh, Võ Tắc Thiên bỗng cao hứng lệnh cho tất cả loài hoa, nội trong một đêm phải nở hết. Sáng hôm sau, tuy giữa mùa đông giá lạnh, các loài hoa đều ríu rít nở, trừ... mẫu đơn. Võ Tắc Thiên giận lắm, bèn phán đày mẫu đơn xuống Lạc Dương cho khuất mắt. Từ đó, Lạc Dương trở thành quê hương của hoa mẫu đơn.
LÊ BÁ THỰ Bút kýNhận lời mời của Bộ Văn hoá và Viện sách Ba Lan, tôi đi dự Đại hội Dịch giả Văn học Ba Lan toàn thế giới lần thứ nhất. Sau khi đến Vacsava, sáng 11 tháng 5 tôi đáp xe lửa xuống Krakow , thành phố cách thủ đô Vacsava trên 300 cây số. Ngồi bên cửa sổ con tàu, tôi ngắm cảnh mùa xuân hai bên đường: những rừng thông tươi tốt, những cánh đồng lúa mì xanh xanh trải dài tít tận chân trời.
VI THÙY LINH Tuỳ bútNgười Trung Quốc (TQ) có câu: “Trên trời có thiên đàng, dưới có Tô Châu, Hàng Châu”. Chỉ thoạt nghe, đã thấy người ta thật tự hào, về cảnh đẹp thành phố (TP) này đến thế nào, trên đất Đại lục dày đặc thắng cảnh, di tích, kỳ quan của Trung Hoa cẩm tú.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNG Tản mạn từ Bruxelles Dưới mái hiên trạm gác cũ Porte de Ninove gần chỗ tôi ở có sống một cư dân đơn độc và lưu niên. Gã bù xù, tôi chỉ biết gọi gã như thế, nom chỉ trạc ngoài ba mươi nhưng có vẻ như đã cũ nát lắm rồi. Không ai biết gã từ đâu dạt vào, ở đó từ bao giờ.