Về Giải thưởng Nobel Văn chương 1985

09:06 08/09/2011
BỬU Ý Tháng 11-1985, Viện Hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải thưởng Nobel cho Claude Simon, nhà văn Pháp theo trường phái mệnh danh là tiểu thuyết mới quy tụ những tên tuổi khác như A-lanh Ro-bơ Gri-dê (Alain Robbe-Grillet - người chủ xướng và lập thuyết), Na-ta-li Xa-rốt (Nathalie Sarraute), Mi-sen Buy-to (Michel Butor), Ro-ber Panh-Jê (Robert Pinget) v.v…

Nhà văn Claude Simon - Ảnh: TL

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Claude Simon sinh năm 1913 ở Ma-đa-ga-xca, sống xa rời xã hội, tránh né nhà báo.

Như ta biết, Tiểu Thuyết Mới là trường phái chủ tâm từ chối (không thừa nhận chủ đề của tiểu thuyết, không cần cốt chuyện, không có nhân vật, coi nhẹ văn phong, phế bỏ tình tiết, bất chấp thời gian, không gian vật lý…) và muốn tạo ra một nhãn quan về thế giới có tính chất hiện tượng (nhìn đời ở bề mặt mà thôi), vật thể, trong thế giới đó vật thể sẽ hiện diện khách quan, và khách quan đến độ tạo thành một khối sức mạnh dần dà tách biệt với con người và đồng thời khiến con người phải thừa nhận nó. Nhãn quan này tương ứng với thời kỳ sản xuất tư bản có tổ chức, có kế hoạch trong đó đồ vật, từ chức năng phục vụ đời sống con người, dần trở nên lấn át con người và bắt con người cuối cùng tôn sùng nó. Và cũng trong nhãn quan này, thế giới con người phải chịu phận bị "đồ vật hóa" và bị phế bỏ.

Cũng như trước đây Sartre một mực bênh vực rằng chủ nghĩa hiện sinh là một nền nhân bản mới, thì Tiểu Thuyết Mới cũng tự cho rằng nó cũng xây đắp một nền nhân bản hiện tượng giúp con người thích nghi trở lại vào thế giới, đồng thời nhìn nhận địa vị của con người và đồ vật một cách khác, một cách khách quan hơn. Nhưng cả hai nền nhân bản này - nếu quả đó là nhân bản - hiển nhiên là những nền nhân bản "Tây phương" khô cằn, bế tắc, bi quan, ngược lại với hy vọng và mơ ước của con người.

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Các nhà văn trường phái Tiểu Thuyết Mới: (Từ trái sang) Alain Robbe-Grillet, Claude Simon, Claude Mauriac, Jérôme Lindon, Robert Pinget, Samuel Beckett, Nathalie Sarraute, Claude Ollier - Ảnh:digischool.nl

Bởi vậy, ta không ngạc nhiên khi nghe Claude Simon đã từng tuyên bố không có cái gọi là hiện thực xã hội, cũng không có hiện thực văn học, mà chỉ có cái hiện thực của chữ viết.

Và để trả lời câu hỏi: nhà văn và tác phẩm đóng góp vào chủ nghĩa nhân bản như thế nào, thì ông trả lời: Tiểu thuyết chỉ giúp thế giới cải đổi chừng nào nó đem lại những tìm kiếm mới mẻ mà thôi.

Nhưng ta vẫn ngạc nhiên vì sự chọn lựa của giải thưởng Nobel như giải này đã từng gây những ngạc nhiên khác trong lịch sử chấm giải của nó. Nó đã từng bỏ sót những tài năng như Íp-xen, Xtrinh-ber, Tôn-xtôi, đã từng thiên vị khi nhìn ra đến 13 nhà văn Bắc Âu xứng đáng được giải, đã từng trớ trêu khi tuyển chọn những nhà văn Liên Xô không thích đáng, đã từng đăng quang cho một vài tên tuổi không quen thuộc lắm, và cũng đã từng bị người "được quàng hoa" từ chối…

Vẫn biết Claude Simon, ngay từ năm 1984, đã là ứng cử viên của giải, dư luận vẫn không vì thế mà kém ngạc nhiên. Bởi lẽ: Claude Simon, ngay ở tại nước Pháp, cũng không được nhắc nhở đến nhiều cho bằng những tên tuổi khác trong cùng một trường phái, như: A-lanh Ro-bơ Gri-dê, Na-ta-li Xa-rốt và Mi-sen Buy-to; thứ nữa, là: nếu đề cao Xi-mông bây giờ, tức là đề cao Tiểu Thuyết Mới luôn nữa, thì là một việc làm khá chậm trễ, vì thịnh thời của Tiểu Thuyết Mới là thập niên 50, và những tác phẩm nổi bật hơn cả của Xi-mông đều ra đời vào những năm ấy, như: Gió (1957), Ngọn cỏ (1958) và nhất là Con đường miền Flăng-đrơ (1960, tác phẩm này suýt được giải thưởng văn chương lớn nhất của Pháp là giải Gông-cua năm này).

Tóm lại, giải thưởng Nobel văn chương 1985 vẫn còn chứa nhiều ẩn số, chưa thuyết phục được dư luận một cách khả quan. Hoặc, ta xem đây là một sự đánh giá mới của Tây phương. Hoặc nữa, là một sự cảnh tỉnh cho chính Tây phương đang sống trong thời kỳ suy tôn đồ vật, trong "Kỷ nguyên ngờ vực".

B.Y.
(17/2-86)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.