Về các nhân tố giao tiếp trong văn học

10:00 17/03/2008
Trong những vấn đề mới của lý luận văn học hiện nay, các nhà nghiên cứu thường nói đến chức năng giao tiếp của văn học. Khi nói văn học có chức năng giao tiếp thì cũng có nghĩa cho rằng văn học ở ngoài giao tiếp.

Tản Đà dạy văn chương

Trong những vấn đề mới của lý luận văn học hiện nay, các nhà nghiên cứu thường nói đến chức năng giao tiếp của văn học. Khi nói văn học có chức năng giao tiếp thì cũng có nghĩa cho rằng văn học ở ngoài giao tiếp. Thực ra, văn học, tự nó là một cuộc giao tiếp. Bản chất giao tiếp của văn học càng rõ hơn khi văn học sử dụng phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ. Do vậy, những quy luật chi phối giao tiếp cũng chi phối luôn quá trình sản sinh và hoạt động của văn học. Mặt khác, tiêu chí đầu tiên để phân loại phong cách học là sự tác động qua lại của các nhân tố giao tiếp. Xuất phát từ những lý do trên, trong bài viết này, chúng tôi mạnh dạn đề cập đến vấn đề các nhân tố giao tiếp trong văn học.
Bàn về các nhân tố giao tiếp, giáo sư ngôn ngữ học Đỗ Hữu Châu chia thành hai nhóm chính: Thứ nhất là nhóm trong giao tiếp có ngôn bản và thứ hai là ngữ cảnh của cuộc giao tiếp. Ở nhóm trong giao tiếp có ngôn bản, ngôn bản vừa là phương tiện, vừa là sản phẩm của giao tiếp. Nói đến ngôn bản người ta thường nói đến dạng nói và dạng viết. Chúng ta thường dùng khái niệm văn bản để nói về ngôn bản dạng viết. Dạng nói thì gọi là ngôn bản. Như vậy, văn bản là một dạng của ngôn bản ( hiểu theo nghĩa rộng). Theo quan niêm này, tác phẩm văn học là văn bản.
Khi đề cập đến vấn đề văn bản, hiện nay, các nhà nghiên cứu cho rằng có văn bản trong văn bản. Một tác phẩm văn học có thể xem như một văn bản lớn trong đó chứa nhiều tiểu văn bản. Mỗi tiểu văn bản có tính độc lập tương đối. Các tiểu văn bản quan hệ với nhau để tạo thành tác phẩm. Trong một tác phẩm văn học, những câu văn, những lời văn nói về một nhân vật nào đó từ đầu tới cuối thì gọi là một tiểu văn bản. Điều này thấy rõ hơn trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Cấu trúc “Truyện Kiều” là một câu đơn tuyến, có thể chia ra ba blốc sự kiện chính: Một là gia cảnh của Kiều, hai là mười lăm năm lưu lạc và ba là Kim- Kiều tái hợp. Nhân vật Kiều được xem như một nhân vật quán xuyến từ đầu truyện đến cuối truyện. Có thể hình dung cấu trúc “Truyện Kiều” như một đường thẳng:
Đạm Tiên  Kim Trọng  Mã Giám Sinh  Tú Bà  Thúc Sinh  Hoạn Thư  Từ Hải 
Cấu trúc này lấy cuộc đời nhân vật làm tuyến chủ đạo. Như vậy, có thể xem cuộc đời của Kiều là một văn bản lớn. Và một khi một nhân vật xuất hiện thì có một tiểu văn bản.
Ngoài cấu trúc như “Truyện Kiều”, người ta cũng thường gặp cấu trúc của tác phẩm văn học mà hai tuyến nhân vật song song. Tác phẩm “Ann Karênina” của L.N. Tônxtôi là một ví dụ tiêu biểu.
Khi nói đến văn bản, người ta thường nhấn mạnh vấn đề liên văn bản. Các nhà thi pháp học Pháp cho biết có những loại liên văn bản như: Liên văn bản hiển nhiên, liên văn bản ngầm. Liên văn bản hiển nhiên là một văn bản luôn luôn có mối quan hệ với văn bản khác. Những mối quan hệ đó được biểu hiện qua: Sự tái viết toàn thể ( “Truyện Kiều” của Nguyễn Du lấy lại cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân); trường hợp cho một văn bản mới ( các tác phẩm viết dạy ngoại ngữ, dạng tóm tắt để có một văn bản ngắn hơn); những văn bản được nhìn nhận và sửa đổi bởi một tác giả ( kịch “Tác tuýp” của Môlie được viết lại 5 lần); có văn bản dựa vào văn bản khác ( kịch dựa vào tiểu thuyết)...
Ngoài liên văn bản hiển nhiên còn có liên văn bản ngầm. Đây là một loại liên văn bản thường thấy trong văn học. Một giọng điệu, một dáng riêng của tác phẩm này; tính quan trọng, trọng tâm hứng thú kết cấu của tác phẩm này giúp ta liên tưởng đến một văn bản khác, một thể loại khác, một phong cách giống nó. Chẳng hạn ở thời kháng chiến, các tác phẩm văn học Việt Nam đều có chung một chủ đề văn hóa là độc lập dân tộc, hay trong văn bản văn chương, các thành ngữ, tục ngữ được tái sử dụng một cách rộng rãi.
Tìm hiểu vấn đề liên văn bản có tác dụng rất lớn trong việc tìm ý nghĩa của văn bản. Nếu không đặt ý nghĩa của văn bản trong quan hệ liên văn bản thì không thấy hết được giá trị của nó. Như vậy, giá trị của văn bản không chỉ phụ thuộc vào quan hệ bên trong mà còn phụ thuộc vào quan hệ bên ngoài văn bản. 
Loại trừ ngôn bản ra, các yếu tố còn lại tạo thành nhóm thứ hai của các nhân tố giao tiếp gọi chung là ngữ cảnh của cuộc giao tiếp. Người ta nêu ra một vài nhân tố như: nhân vật giao tiếp, hiện thực được nói tới, hoàn cảnh giao tiếp, hệ thống tín hiệu...
Nhân vật giao tiếp là người nói và người nghe. Theo nguyên tắc của lý thuyết hội thoại thì người nói cũng đồng thời là người nghe vì trong hội thoại có sự luân phiên nói và nghe trong một nhân vật giao tiếp. Đối với văn học, trong cuộc giao tiếp giữa TÁC GIẢ- TÁC PHẨM- BẠN ĐỌC- THỜI ĐẠI thì hiện nay, thi pháp học phương Tây cho rằng bạn đọc hay người tiếp nhận là nhân tố quan trọng. Tác phẩm văn học luôn luôn động chứ không phải tĩnh. Điều này là do độc giả thay đổi từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi một độc giả “sáng tạo” lại tác phẩm theo cách riêng của mình. Như vậy, trong tác phẩm văn học, tác giả và độc giả đều tham gia vào sự hình thành tác phẩm- thông điệp của cuộc giao tiếp.
Hiện thực được nói tới trong văn học, có thể là hiện thực khách quan hay thế giới nội tâm. Khi đi vào tác phẩm, hiện thực khách quan và thế giới nội tâm gọi là thế giới được phản ánh. Thế giới được phản ánh cũng được gọi là thế giới phát ngôn. Một điều lưu ý là giữa hiện thực và thế giới phát ngôn không có sự đồng nhất hoàn toàn . Điều này có hai lý do: Một là do hạn chế của phương tiện phản ánh hai là do sự sàng lọc của chủ thể phản ánh. Nói một cách rõ hơn là thế giới hiện thực trong tác phẩm là thế giới hiện thực đã qua lăng kính chủ quan của người viết. Nói đến sáng tác văn học là nói đến cái suy ngẫm của người viết đối với hiện thực bên ngoài. Thế giới phát ngôn hay thế giới phản ánh là tổ hợp giữa hiện thực và suy ngẫm chủ quan của tác giả. Trong văn học, cái có ý nghĩa là cái cảm xúc, là suy ngẫm chủ quan của tác giả đối với hiện thực. Tác phẩm văn học, vì thế, không phải là báo cáo khoa học. Chính điều này mà các nhà lý luận văn học cho rằng, chức năng của văn học là tự biểu hiện và giao tiếp. Tự biểu hiện và giao tiếp  trong thực tế không chống đối nhau. Giao tiếp là tự biểu hiện. Hiện thực được nói đến chính là hệ quy chiếu của tác phẩm văn học. Khi đặt tác phẩm vào hệ quy chiếu mới nắm được nghĩa chiếu vật của tác phẩm đó. Trong chuyện cổ tích, hệ quy chiếu là ảo tưởng chứ không thực. Trong huyền thoại, hệ quy chiếu là hiện thực.
Một nhân tố nữa trong nhóm thứ hai là hoàn cảnh giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp bao gồm điều kiện xã hội, văn hóa, lịch sử... mà trong đó cuộc giao tiếp diễn ra. Do vậy, muốn hiểu được một bài thơ, một tác phẩm văn học cần phải biết nó được viết trong hoàn cảnh nào. Biết được hòan cảnh ra đời của “Thơ mới” là vào những năm ba mươi của thế kỷ XX mới thấy được nó là tiếng nói của tầng lớp tiểu tư sản đang đứng trước sự đổi thay của xã hội, của cuộc đời.
Sẽ thiếu sót nếu xét các nhân tố giao tiếp trong văn học mà bỏ qua hệ thống tín hiệu. Hệ thống tín hiệu được nhà văn, nhà thơ dùng để tạo nên hình thức cho tác phẩm của mình. Với văn học, mã là ngôn ngữ. Ngôn ngữ đích thực của văn học là tín hiệu thẩm mỹ (1). 
Ngoài các nhân tố giao tiếp, hội thoại văn học còn chịu sự chi phối của một loạt quy tắc như thương lượng hội thoại, phương châm hội thoại...Với tính chất của bài viết, chúng tôi không nêu ra ở đây một cách đầy đủ và chi tiết. Mặc dù bài viết còn ở dạng định hướng, song chúng tôi cũng hy vọng rằng những vấn đề đã đề cập ở trên có thể giúp ích phần nào cho việc nghiên cứu và phê bình văn học trong xu thế hiện nay.
Huế, tháng 2 năm 1998
NGUYỄN THỊ XUÂN YẾN
(nguồn: TCSH, 1.1999)
---------------------------------------------------
(1). Xem thêm: Nguyễn Thị Xuân Yến- Bàn thêm về tín hiệu thẩm mỹ trong văn học- Tạp chí Sông Hương, tháng 7/1997.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA

    1. Toàn cầu hóa là một hiện thực diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, từ hai thập kỉ qua. Một hiện thực lồ lộ trước mắt ta, bên cạnh ta, ngay trong nhà và ở chính bản thân ta, dù ta là công dân ở đất nước tiên tiến hay dù ta chỉ là một thành phần thuộc sắc dân thiểu số cư trú vùng sâu vùng xa trong một đất nước đang phát triển chưa qua giai đoạn hiện đại hóa.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Sau này lúc về già, Nguyễn Trãi đã có lần nhắc lại hoài bão lập chí thời trẻ của mình bằng một hình tượng đẹp lạ lùng, "nhìn ánh sáng, muốn học chim phượng ca hát mặt trời lên" (Lãm huy nghi học minh dương phượng).

  • VIỄN PHƯƠNGKhi văn chương tham dự vào những mê lộ mới, mê lộ của nhận thức luận phức hợp hôm nay, khi nhà văn không còn hứng thú trong việc lục lọc, săm soi lại các bảng giá trị trong truyền thống thì tất yếu văn chương sẽ bước vào những cuộc chơi mới.

  • TRẦN THIỆN ĐẠO Trước khi bàn tới nội dung và hình thức thiên truyện L’Art français de la guerre (Binh pháp của nước Pháp - Nxb Gallimard) của Alexis Jenni vừa trúng giải Goncourt 2011, cũng nên nhắc qua mấy điều nổi bật chẳng dính dáng gì với chất lượng tự tại của tác phẩm. Mà chỉ đơn thuần với tựa đề cuốn sách và tác giả của nó.

  • LGT: Anders Cullhed (sinh 1951) là giáo sư Văn học So sánh ở Đại học Stockholm, Thuỵ Điển. Ông viết luận án Tiden sòker sin ròst (Thời đại đang tìm kiếm tiếng nói) 1982 về nhà văn hiện đại Thuỵ Điển Erik Lindegren với tập thơ thời chiến Mannem utan vàg (Con người không lối đi) với một mối quan tâm đặc thù về sự tương quan của tập thơ này với chủ nghĩa hiện đại Pháp và Anh, với truyền thống văn học và với sự sụp đổ hệ thống tư tưởng đương đại gây ra do thế chiến thứ 2.

  • NGÔ MINH Xa Hà Nội (Nxb Văn học 2011), cuốn tiểu thuyết thứ 3 và tập văn xuôi thứ 7 của nhà văn Nhất Lâm vừa ra mắt bạn đọc đầu tháng 9-2011. Tôi đọc một mạch hết 334 trang sách. Cuốn sách đặt ra nhiều vấn đề thú vị về cuộc sống và thời cuộc rất đáng suy nghĩ, chiêm nghiệm.

  • NGUYỄN QUANG HUY Hình thù của văn học không thể đến từ cuộc sống; nó chỉ đến từ truyền thống văn học; và vì thế cơ bản là đến từ thần thoại.                                                  N. Frye

  • LGT: Tiểu thuyết Vùng lõm của nhà văn Nguyễn Quang Hà được giải nhì cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 3 của Hội Nhà văn Việt Nam 2006 - 2010. Ngày 24 - 10 - 2011 Hội đã tổ chức tọa đàm tiểu thuyết Vùng lõm, Sông Hương xin giới thiệu bài tham luận của nhà văn Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐẶNG TIẾN Thanh Tịnh là nhà văn có sự nghiệp dài hơn nửa thế kỷ, với số lượng trước tác dồi dào, đa dạng. Nhưng kỷ niệm bền chặt nhất mà ông để lại trong lòng người đọc là tập truyện đầu tay Quê Mẹ, 1941, với hình ảnh thơ mộng của làng Mỹ Lý và buổi tựu trường trong truyện Tôi đi học.

  • THÁI BÁ VÂN ĐỜI SỐNG VẬT THỂ VÀ ĐỜI SỐNG HÌNH TƯỢNG

  • THANH MẪN Tôi khóc những chân trời không có người bay Lại khóc những người bay không có chân trời.                                 (Trần Dần)

  • NGUYỄN VĂN HẠNH Văn chương là một hiện tượng không ngừng vận động, không ngừng đổi mới, từ môi trường xã hội văn hóa này sang môi trường xã hội văn hóa khác, từ nhà văn này sang nhà văn khác.

  • L.T.S: Soutchat Sawatsri nhà thơ và viết truyện ngắn chủ bút báo "Thế giới sách vở" vừa là một nhà phê bình có uy tín ở Thái Lan. Trong bài "Thời đại và con người" đăng trên báo Pháp "Thế giới ngoại giao" năm 1983 Soutchat Sawatsri đã giới thiệu tóm tắt đầy đầy đủ các bước phát triển của văn học Thái Lan hiện đại.

  • NGUYỄN HỮU ĐÍNH Phan Huy Chú, tác giả «Lịch triều hiến chương loại chí», ở mục «Lễ táng sơn lăng», «Lễ nghi chí», viết «Ngọ Phong họ Ngô (1) nói: đời xưa thiên tử chết, bảy tháng mới chôn, chỗ đất chôn gọi là sơn lăng - Lăng đều có tên».

  • TRẦN HUYỀN SÂMGiản dị, nhưng lay động và ám gợi một cách siêu hình, nhà thơ sống ẩn dật Tomas Transtromer đã được Hội đồng Hàn lâm Thụy Điển vinh danh giải Nobel văn học 2011.> Những nét gạch xóa của lửa

  • NGUYỄN DƯ Mời các bạn đi… xem hát. Đúng hơn là xem chữ hát (h)… của tiếng Pháp. Lại chuyện Ăn cơm nhà vác ngà voi! Ngà voi còn nhẹ chán. Ngà mammouth cũng đành phải xông vào mà vác. Vác giùm cho… lịch sử, địa lí Việt Nam. Ủa! Trời đất! Đùa hay thật vậy?

  • TRẦN THỊ MỸ HIỀN Ngô Kha là một trong số ít những nhà thơ có số phận khá đặc biệt trên thi đàn Việt Nam. Sinh năm 1935 ở Thế Lại Thượng (thuộc thành phố Huế ngày nay), ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Đại học Sư Phạm Huế (1958 - 1959), tốt nghiệp Cử nhân Luật khoa (1962), sau đó dạy văn và giáo dục công dân ở các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo ở Huế từ 1960 cho đến khi bị thủ tiêu vào 1973.

  • KHÁNH PHƯƠNG Với “Đội gạo lên chùa”, cuốn tiểu thuyết mới (NXB Phụ nữ, 6/2011), nhà văn Nguyễn Xuân Khánh tái ngộ độc giả bằng dòng văn chương ấm áp và cuốn hút, hứa hẹn những miêu tả, xét đoán tinh tế về tâm thức con người cũng như những bí ẩn thẳm sâu trong tiềm thức và văn hóa của một cộng đồng dân tộc.

  • HOÀNG THỊ HUẾ Xứ Huế là một vùng đất có nền văn hóa đặc sắc - vừa mang nét riêng vừa dung hợp với văn hóa Việt Nam và khu vực, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa dân gian, văn hóa đô thị cổ truyền và văn hóa cung đình - mà không vùng đất nào có được.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGNhững cuốn sách đã giữ một vị trí đặc biệt trong thế giới tuổi thơ của tôi; trước hết là những sách giáo khoa tôi đã học trong những ngôi trường đầu tiên của đời mình, dưới thời Pháp thuộc.