Về các chiều cạnh của phê bình

10:14 05/10/2018

ĐỖ LAI THÚY

Lý thuyết hệ hình là một hệ pháp nghiên cứu sự phát triển. Văn học Việt Nam, do những đặc điểm riêng thuộc của mình, không phát triển nối tiếp như ở các nước phương Tây, mà gối tiếp như những làn sóng, con trước chưa tan thì con sau đã tới, hay đúng hơn vừa là nối tiếp vừa là gối tiếp.

Bởi vậy, văn học Việt Nam tiếp cận từ lý thuyết hệ hình chẳng những tránh được một cái nhìn tuyến tính, giản đơn mà còn thấy được sự vận động nội tại, đặc biệt tính liên tục qua những đứt đoạn của nó. Từ một cái nhìn như vậy, tôi muốn nói về phê bình nói chung và phê bình cụ thể qua cuốn sách Ba chiều cạnh của phê bình(*) của Hoàng Thị Huế do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành đầu năm 2018.

Phê bình văn học giống như một khối kim tự tháp nhiều mặt, mà ở đây tôi chỉ nói về ba mặt, hoặc ba chiều kích, của nó: phê bình thơ, phê bình văn (xuôi) và phê bình văn hóa. Với phê bình thơ và phê bình văn xuôi thì phụ thuộc rất nhiều vào đặc trưng thể loại của chúng, còn phê bình văn hóa thì là đích đến của cả hai phê bình trên. Ba chiều cạnh này của phê bình tuy không đồng đẳng, nhưng bình đẳng trong mục đích của mình.

Thơ là ngôn ngữ tự quay về với chính bản thân nó. Nghĩa của thơ, vì vậy, nằm ở chính ngôn ngữ, nói khác, ở quan hệ giữa chữ và nghĩa, hay giữa chữ và bóng chữ. Thơ tiền hiện đại thì nghĩa đi trước chữ. Nhà thơ có một ý tưởng rồi thì tìm câu chữ để thể hiện ý tưởng đó. Thơ hiện đại thì, ngược lại, chữ đi trước nghĩa, dĩ nhiên không phải là nghĩa tự vị, nghĩa tiêu dùng. Có chữ trước, rồi bắt các con chữ ấy tiếp xúc với nhau trong mối quan hệ văn bản, thì sẽ phát sinh nghĩa mới. Đó là lý do Mallarmé nói: Tôi không làm thơ với các ý tưởng, tôi làm thơ với những con chữ. Còn Trần Dần, Lê Đạt thì tự gọi mình là “người làm công tác chữ”,“người gây sự chữ”, hoặc “phu chữ”, chữ phu ở đây vừa là phu hồ, phu lục lộ, vừa là phu tử (bậc thầy). Thơ hậu hiện đại là chữ - nghĩa, nghĩa - chữ đuổi bắt nhau như trong trò chơi rồng rắn của tuổi nhỏ. Thơ hậu hiện đại, như vậy, có vẻ chiết trung, nhưng là chiết trung mới, một chiết trung trên cơ sở văn hóa hậu hiện đại.

Văn, nhất là văn tiểu thuyết, thì quan trọng nhất là kể/viết. Tiểu thuyết tiền hiện đại là kể một câu chuyện. Ở đây, câu chuyện/ cuộc phiêu lưu là quan trọng nhất, làm sao cho câu chuyện tự thân nó đã ly kỳ, hấp dẫn, hay dễ làm động lòng người đọc, còn cách kể câu chuyện ấy chỉ là thứ yếu. Nhưng sang tiểu thuyết hiện đại, thì cách kể/viết lên ngôi, thậm chí là tất cả. Bởi lẽ, câu chuyện bây giờ không còn quan trọng nữa, vì “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, nên chỉ có cách kể/viết, tức cái nhìn riêng, mới có khả năng làm mới nó. Như vậy, nếu tiểu thuyết tiền hiện đại là viết về cuộc phiêu lưu, thì tiểu thuyết hiện đại là cuộc phiêu lưu của cái viết. Đến tiểu thuyết hậu hiện đại, thì cả cách kể cũng không còn quan trọng nữa, mà lúc này quan trọng chính là sự tự ý thức về cách kể, tức kể về kể, hoặc viết về viết.

Phê bình tiền hiện đại là phê bình ngoại quan, tức lấy những yếu tố ngoài tác phẩm như tiểu sử tác giả, hiện trạng văn hóa, xã hội, điều kiện kinh tế, giai cấp xuất thân…, như là một tham số đã biết để soi chiếu vào tác phẩm như một tham số chưa biết, ít nhiều theo nguyên tắc loại/ ngoại suy. Phê bình hiện đại là phê bình nội quan, tức đi tìm những “mắt thơ”, mã nghệ thuật ở, và đôi khi chỉ ở, trong văn bản, trên các phương diện thủ pháp, phong cách, cấu trúc… của tác phẩm. Phê bình nội quan không chỉ đi tìm nghĩa chủ ý do tác giả ký thác/ cài đặt vào văn bản, mà chủ yếu đi tìm nghĩa kiến tạo do phân tích văn bản mà thành. Như vậy, nghĩa kiến tạo do người đọc, mà trước hết do “siêu người đọc”, tức nhà phê bình, tạo nên. Mà mỗi người đọc đều có sự hiểu khác nhau, do trải nghiệm đời sống và trải nghiệm thẩm mỹ, tức văn hóa khác nhau, nên kiến tạo ra những nghĩa không như nhau. Lúc này phê bình văn học chuyển trọng tâm từ văn bản sang người đọc. Phê bình hậu hiện đại, vì thế, là phê bình nội - ngoại quan.

Có điều đáng lưu ý là ở/ cả phê bình tiền hiện đại lẫn phê bình hậu hiện đại có yếu tố ngoại quan, nhưng chúng khác nhau về thực chất. Ngoại quan của phê bình hậu hiện đại không phải là một yếu tố biết trước, mớm trước như ở phê bình tiền hiện đại, mà đã trải qua một quá trình phân tích nội quan, rồi từ đó mới quy dẫn đến ngoại quan. Như vậy, ngoại quan hậu hiện đại là cái chưa biết, cái đến sau, do chính sự khái quát nghệ thuật của tác phẩm đặt ra. Và, cái ngoại quan này, như trên đã nói, là những vấn đề văn hóa. Với hậu hiện đại, phê bình văn học thực chất là phê bình văn hóa.

Phê bình văn học Việt Nam đến nay đã/ đang trải qua hai lần thay đổi hệ hình. Lần thứ nhất từ thời hiện đại (ngoại quan) sang chủ nghĩa hiện đại (nội quan), có thể coi như đã hoàn thành. Lần thứ hai từ hiện đại (nội quan) sang hậu hiện đại (nội - ngoại quan), thì đang còn tiếp diễn. Sự thành công vang dội của những công trình phê bình hiện đại đã làm nấn ná bước chân phê bình. Hơn nữa, “nỗi sợ khoảng trống” hậu hiện đại đã cầm tù phê bình trong sự tự trị văn bản. Phê bình văn học Việt Nam lúc này đang dần dần trở nên khép kín, xa rời cuộc sống do thứ ngôn ngữ chuyên môn khó hiểu của nó. Để phá vỡ tính đặc tuyển này, phê bình văn học phải nhanh chóng chuyển sang phê bình văn hóa. Với phê bình văn hóa, nó sẽ tạo ra, một mặt, sự gắn kết với các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn khác, nhằm xây dựng phương pháp nghiên cứu liên/ xuyên ngành. Mặt khác, vấn đề văn hóa hiện nay ở/ của Việt Nam chủ yếu là những vấn đề Việt Nam học. Tham gia giải quyết các vấn đề trên, phê bình văn học Việt Nam nói riêng và sáng tác văn học nói chung, sẽ trở lại với đời sống, với “thế giới sống” trên một tư cách khác.

Bàn về phê bình và hiện trạng của phê bình văn học Việt Nam hiện nay, Ba chiều cạnh của phê bình, với những bài viết cụ thể, phong phú, mang sắc màu, cảm xúc, dấu ấn riêng của tác giả Hoàng Thị Huế, ở ba mặt, hoặc ba chiều kích, là: phê bình thơ, phê bình văn (xuôi) và phê bình văn hóa. Đấy là những nghiên cứu trường hợp. Người đọc có thể bắt gặp ở sách này những gương mặt tiêu biểu hoặc còn chưa tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện nay, đặc biệt là vùng văn hóa Huế. Nhưng bài nghiên cứu về họ đều bộc lộ được cái nhìn, cảm xúc, ý tưởng của tác giả. Mỗi trường hợp được nghiên cứu trong sách này vừa có giá trị tự thân vừa có giá trị tương quan để cuốn sách trở thành một chỉnh thể. Và chỉ trong cái nhìn mang tính chỉnh thể như vậy, thì người đọc mới thấy được hết giá trị của tác phẩm.

Về phê bình thơ, tác giả nghiên cứu các nhà Thơ mới tiêu biểu như Nguyễn Bính (Lãng mạn), Bích Khê (Tượng trưng), Hàn Mặc Tử (Siêu thực), (Lãng mạn → Tượng trưng → Siêu thực) một mặt, và Trần Dần, Lê Đạt (Thơ hiện đại chủ nghĩa), một mặt khác, để thấy đây là hai đầu của một hành trình cách tân thơ Việt. Đồng thời, qua đó sự vận động của thể loại thơ: từ thơ luật kiểu mới (thơ 7 chữ, 8 chữ của Thơ mới) đến thơ tự do của Trần Dần, Lê Đạt. Đây cũng chính là quá trình vận động của cái tôi từ đơn ngã sang đa ngã của thơ Việt đương đại. Thế giới nghệ thuật của các nhà thơ này được tác giả nghiên cứu ở tầng sâu nhất của nó “vô thức sáng tạo của người nghệ sĩ”.

Về phê bình văn, tác giả nghiên cứu “truyện ngắn Phan Khôi” để tìm ra một trong những điểm khởi đầu của “tiến trình hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam”. Sau đó là nghiên cứu những dấu mốc/thành tựu nghệ thuật qua nghệ thuật sử dụng ánh sáng bóng tối trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, ngôn ngữ trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao, rồi từ đó nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, kết cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết “Paris 11 tháng 8” của Thuận, cổ mẫu, biểu tượng, huyền thoại trong “Đội gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh, hành trình khám phá bản thể trong tiểu thuyết “Đàn trời” của Cao Duy Sơn. Ở đây, người đọc cũng thấy được đường dây ngầm ẩn mà tác giả giăng mắc từ Phan Khôi qua Nam Cao, Thạch Lam, rồi Nguyễn Xuân Khánh, Cao Duy Sơn, cuối cùng đến Thuận. Đó là con đường hòa nhập thế giới đầy quanh co, ngập ngừng, do dự, thậm chí có lúc, có nơi quay đầu lại của văn xuôi Việt Nam từ tiền hiện đại đến hiện đại.

Về phê bình văn hóa, tác giả, là người sinh ra và lớn lên ở Huế, hiểu văn hóa Huế như một người con, nhưng với tư cách nhà nghiên cứu thì hiểu văn hóa Huế như một vùng văn hóa/văn hóa vùng. Bởi vậy, tác giả đi tìm dấu ấn văn hóa Huế ở những nhà văn, nhà thơ đã đành mà cả ở những người không-Huế như Hàn Mặc Từ với xứ Huế qua “Đây thôn Vỹ Dạ”, hoặc trong các truyện ngắn của Trần Thùy Mai, hoặc sắc thái văn hóa Huế trong thơ của một số nhà Thơ mới. Nhưng, có lẽ quan trọng hơn là đi tìm văn hóa, đúng hơn đường dây văn hóa → văn học → văn hóa của các nhà văn, nhà thơ qua sự thức nhận văn hóa trong ngôn ngữ Thơ mới, các quy ước văn hóa trong ngôn ngữ nghệ thuật, huyền thoại về lửa trong thơ Việt Nam sau 1986, và cuối cùng là con người vừa như chủ thể vừa như khách thể của văn hóa trong thơ Việt đương đại. Phê bình văn hóa, quả vậy, rất khó vì văn hóa không là cái gì cả nhưng lại có mặt ở tất cả mọi cái, dĩ nhiên đó là khuôn mặt ẩn dấu.

Tách ra những chiều cạnh của phê bình là công việc của nhà nghiên cứu để đưa đến một nhận thức lí tính vẫn còn yếu/thiếu ở/của Việt Nam. Nhưng chia ra để rồi hợp lại, bởi không chỉ văn học là một chỉnh thể mà với con người hiện nay là trí tuệ, cảm xúc và tư duy phức hợp.

Hà Nội, tháng Sáu, Đinh Dậu
Đ.L.T
(TCSH355/09-2018)

--------------------
(*) Ba chiều cạnh của phê bình - Hoàng Thị Huế, Nxb. Hội Nhà văn, 2018).  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...