VÕ VINH QUANG
Ảnh bìa ngoài Đồng sách - ban phong cho Lạc Hóa quận công - Ảnh do ông Bảo Tiến - Phòng Lạc Hóa quận công cung cấp
Lạc Hóa quận công Miên Vũ là hoàng tử thứ mười lăm của Thánh tổ Nhân hoàng đế (vua Minh Mạng). Đức Từ (mẹ ruột) của hoàng tử Miên Vũ là Cung nhân Nguyễn Thị Nhơn (Nguyễn Phúc tộc Thế phả chép là Nguyễn Thị Vĩnh), pháp danh Tánh Lương, thụy hiệu Diệu Hạnh. Bà qua đời chỉ vài ngày sau khi sinh ra hoàng tử. Năm Canh Tý niên hiệu Minh Mạng thứ 21 (1840), hoàng tử Miên Vũ được vua cha quý ban sách phong bằng bạc, phong tước Lạc Hóa quận công, cho kiến lập phủ đệ tại vùng chợ Dinh Thượng (Hương Trà, Thừa Thiên lúc bấy giờ). Đến năm Kỷ Dậu niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849), Lạc Hóa quận công qua đời, hưởng thọ 28 tuổi, thụy là Hòa Thận, an táng tại sơn phần Thủy Biều, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc phường Thủy Xuân).
Sách Đại Nam chính biên liệt truyện, Nhị tập, quyển 6 - Truyện các hoàng tử - mục II (Các con của Thánh Tổ, tập Trung), tiểu mục Lạc Hóa quận công Miên Vũ của Sử thần tại Quốc sử quán nhà Nguyễn cho biết:
“Lạc Hóa quận công Miên Vũ: Con thứ 15 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, mẹ là Cung nhân họ Nguyễn Văn, con nhà lương gia ở huyện Hương Trà phủ Thừa Thiên, ông sinh vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822). Lúc mới làm hoàng tử có học hạnh, năm [Minh Mạng thứ] 21 (1840) được phong làm Lạc Hóa Quận công. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), ông chết, lúc 28 tuổi, tên thụy Hòa Thận, dựng đền ở ấp Doanh Thị, huyện Hương Trà. Có 10 con trai, 3 con gái. Con thứ 5 là Hồng Chước được tập phong làm Kỳ Ngoại hầu”1 .
Thông tin từ gia phả Phòng Lạc Hóa có một chút khác biệt so với Đại Nam liệt truyện, đó là hoàng tử Miên Vũ lập sáu phủ thiếp, sinh được 12 công tử (Đại Nam liệt truyện chép “10 con trai”) và 3 công nữ. Trong đó, Kỳ Ngoại hầu Hường Chước trưởng thành, lập gia thất và nối tiếp ý nguyện của cha. Công tử Hường Chước có 2 phu nhân, sinh 9 con trai và 7 người con gái. Nổi bật nhất trong hàng con trai của Kỳ Ngoại hầu Hường Chước chính là Hiệp tá Đại học sĩ - Công tôn Ưng Dinh2.
Những năm qua, trong quá trình giao lưu, trao đổi với ông Bảo Tiến - hậu duệ Lạc Hóa quận công, chúng tôi đã được tiếp cận nhiều tư liệu và thông tin liên quan đến Phủ Lạc Hóa, cũng như Lạc Hóa quận công Miên Vũ. Vào cuối năm 2022, được sự cậy nhờ của ông Bảo Tiến, chúng tôi đã tiếp cận tư liệu gốc về sách đồng Lạc Hóa quận công và tiến hành dịch thuật. Nhân đó, biết rằng trước đây cũng đã có một số bản dịch liên quan đến sách đồng trên, tuy nhiên vì nhận thấy bản sách phong bằng đồng khá giá trị về nội dung, cũng như về văn chương nghệ thuật, khả dĩ đóng góp được phần nào cho lịch sử văn hóa, văn học của xứ Huế. Bởi vậy, tại bài viết này, chúng tôi xin cung cấp toàn văn và phần dịch thuật, cũng như có đôi lời bàn về nội dung, ý nghĩa của bản đồng sách trên.
Nguyên văn:
維明命貳拾壹年歲次庚子正月壬辰朔越參日甲午
承天興運皇帝若曰朕惟:
周有庶邦之建, 藩屏是資
漢有同姓之封, 泰磐增壯
朕廑念建親之義, 思弘裕後之規.
咨爾: 皇十五子綿宇
少禀純良, 夙稱敦敏.
禮詩庭誨, 德日勵乎進修
規矩義方, 誼恪敦夫友愛.
服茲嚴訓, 嘉乃有成.
惟制爵辨賢, 帝王之公道.
斯在而廣恩存勸, 國家之典則有常.
是用特封爾為樂化郡公. 錫之册印
爾其: 履道謙謙, 秉心翼翼.
為臣為子,永懷忠孝之彝
而身而家,長荷寵光之錫. 欽哉
嗣德拾壹年陸月拾玖日改給
Phiên âm:
Duy Minh Mạng nhị thập nhất niên, tuế thứ Canh Tý chánh nguyệt, Nhâm Thìn sóc việt tam nhật Giáp Ngọ.
Thừa thiên hưng vận hoàng đế nhược viết, trẫm duy:
Chu hữu thứ bang3 chi kiến, phiên bình4 thị tư;
Hán hữu đồng tính5 chi phong, thái bàn tăng tráng.
Trẫm: Cận niệm kiến thân chi nghĩa; Tư hoằng dụ hậu chi quy.
Tư nhĩ: Hoàng thập ngũ tử Miên Vũ.
Thiếu bẩm thuần lương, túc xưng đôn mẫn.
Lễ thi đình hối, đức nhật lệ hồ tiến tu;
Quy củ nghĩa phương, nghị khác đôn phù hữu ái.
Phục tư nghiêm huấn, gia nãi hữu thành.
Duy chế tước biện hiền, đế vương chi công đạo.
Tư tại nhi quảng ân tồn khuyến, quốc gia chi điển tắc hữu thường.
Thị dụng đặc phong nhĩ vi Lạc Hóa quận công. Tích chi sách ấn.
Nhĩ kì:
Lý đạo khiêm khiêm, bỉnh tâm dực dực.
Vi thần vi tử, vĩnh hoài trung hiếu chi di;
Nhi thân nhi gia, trường hạ sủng quang chi tích.
Khâm tai!
Tự Đức thập nhất niên lục nguyệt thập cửu nhật cải cấp.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Bản đồng sách ban phong cho Lạc Hóa quận công Miên Vũ - Ảnh do ông Bảo Tiến - Phòng Lạc Hóa quận công cung cấp |
Dịch nghĩa (thể tứ lục):
Vào năm Canh Tý, tháng Giêng, vượt ngày Nhâm Thìn [Mồng 1] ba ngày là ngày Giáp Ngọ [Mồng 3] niên hiệu Minh Mạng thứ 21 (1840).
Thay trời dấy vận, Hoàng đế truyền rằng. Trẫm nghĩ:
Nhà Chu tạo nước chư hầu, cậy nhờ phên giậu;
Triều Hán phong người cùng họ, vững chãi thái bàn6
Trẫm: Lo nghĩ tôn thân đạo nghĩa; Tính suy con cháu phép khuôn.
Ôi ngươi: Hoàng tử thứ mười lăm là Miên Vũ.
Thuở bé thuần lương; Tuổi thơ mẫn tiệp.
Lễ - Thi7 dạy dỗ, đức hạnh luôn gắng gỏi vun bồi;
Quy củ rõ ràng, kính quý mãi sâu dày thân ái.
Quen điều nghiêm huấn8, tốt đẹp vẹn toàn.
Ngẫm định tước xét tài, đế vương dùng công đạo9.
Lấy đó mà rộng ơn khuyến khích; Quốc gia dùng điển tắc10 thường hằng.
Nay đặc biệt phong cho ngươi là Lạc Hóa quận công. Quý ban sách ấn.
Ấy rằng:
Chân đạo khiêm nhường, chính tâm cẩn trọng.
Là thần, là tử11, mãi ấp ôm trung hiếu phép khuôn;
Bèn thân, bèn gia12, luôn khắc ghi thưởng cho ân sủng. Khâm tai!
Tự Đức năm thứ 11 (1858), ngày 19 tháng 06, đổi cấp (Ban cấp lại sách phong).
Bản sách phong trên chất liệu đồng (đồng sách) là một trong những hiện vật gốc quý giá, thuộc sở hữu của các Phủ - Phòng trong hoàng tộc nhà Nguyễn. Việc lưu giữ, bảo tồn hiện vật đồng sách này, cùng các loại Kim sách (sách phong bằng chất liệu vàng ròng), Ngân sách (sách phong bằng chất liệu bạc), Thể sách (sách phong trên vải lụa)... hiện tồn giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng quát, đầy đủ về hệ thống sách phong đặc trưng và đầy đủ ở triều Nguyễn. Điều đó cũng chứng tỏ rằng trong suốt hơn 140 năm tồn tại, Nguyễn triều thực sự là một triều đại hoàn chỉnh về chế độ y - quan, văn hiến.
Trong số các Phủ - Phòng thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn hiện nay, mặc dù chưa có thống kê chính xác, song không phải Phủ - Phòng nào cũng còn lưu giữ được các bản sách phong (phổ biến là đồng sách). Cũng bởi vậy, những thông tin liên quan đến bản đồng sách, dùng để ban phong cho Lạc Hóa quận công Miên Vũ trên chính là nguồn tư liệu giá trị, khả dĩ cung cấp thêm nguồn tư liệu sách phong cho độc giả quan tâm tìm hiểu. Đó cũng là văn bản quý, góp phần giúp người đọc có cái nhìn rõ rệt về một số đặc trưng của sách phong, so với sắc phong thần, sắc phong nhân vật (chế cáo)... Chẳng hạn, khởi đầu các sách phong thường ghi:
“Duy + niên hiệu vua + năm thứ bao nhiêu + tuế thứ + năm theo Can Chi + tháng + ngày [can-chi] + sóc việt (vượt qua ngày sóc - tức ngày mồng 1 âm lịch là bao nhiêu ngày) + số ngày tính từ ngày sóc-mồng 1 + Can Chi của ngày. Tiếp đó mới là cụm từ “Thừa Thiên hưng vận hoàng đế NHƯỢC viết, trẫm duy...”.
Ví như bản đồng sách trên, mở đầu ghi là: “Duy Minh Mạng nhị thập nhất niên, tuế thứ Canh Tý, chính nguyệt, Nhâm Thìn sóc việt tam nhật - Giáp Ngọ. Thừa Thiên hưng vận hoàng đế nhược viết, Trẫm duy...” 維明命貳拾壹年歲次庚子正月壬辰朔越參日甲午. 承天興運皇帝若曰朕惟.
Cách ghi đó cho chúng ta biết rằng: ngày ban cấp sách phong là ngày Giáp Ngọ - tức ngày Mồng 3, vượt qua ngày Sóc (ngày Mồng 1) - tức ngày Nhâm Thìn là 3 ngày, và vào tháng Giêng, năm Canh Tý - niên hiệu Minh Mạng thứ 21 (1840).
Hiểu rõ được cách ghi đó, chúng ta đã nắm vững được đặc trưng khởi đầu của các bản sách phong triều Nguyễn. Bởi, đấy là cách ghi chỉ thấy trong hệ thống sách phong, mà không xuất hiện ở các thể loại ban phong khác (như Chế phong, sắc chỉ, sắc phong...). Cũng bởi vậy, sau nhiều năm tìm hiểu, chúng tôi từng rất lúng túng và hiểu sai khi dịch thuật về năm tháng khởi đầu ở loại hình sách phong này. Mới đây, nhờ sự hỗ trợ và trao đổi của một số anh em chuyên môn, chúng tôi đã tìm hiểu ngày tháng âm lịch, đối chiếu suy xét, từ đó mới hiểu được cách hành văn của thể tài sách phong trên.
Cũng giống như các loại văn bản hành chính, do hoàng đế triều Nguyễn ban phong, tưởng thưởng cho quan lại, quần thần có công trạng, hệ thống sách phong này (trong đó có đồng sách ban phong cho Lạc Hóa quận công) sử dụng thể văn tứ lục và tứ lục biến thể, với đặc tính văn chương biền ngẫu, chuẩn đối, tạo nên sự uyển chuyển, nhịp nhàng và đầy nhạc tính. Đồng thời, thông qua đó, các văn thần biên soạn sách phong đã thể hiện rõ tài năng văn chương nghệ thuật của mình, với cách lựa chọn sử dụng điển tích điển cố cực kỳ tinh gọn và hàm súc. Mỗi bản sách phong là một áng văn chương đặc sắc riêng có, không hề trùng lặp với ý tứ của các bản sách phong còn lại (tức không có tính khuôn mẫu như một số loại hình chế phong, sắc phong thần...). Đấy là nguồn tư liệu quý cho văn học nghệ thuật thời Nguyễn, cũng như cho giới nghiên cứu về văn chương nghệ thuật cổ trung đại Việt Nam khai thác và phát huy hơn nữa về giá trị văn chương của hệ thống sách phong.
Cũng vì đặc trưng văn chương biền ngẫu theo thể tứ lục, cho nên khi dịch thuật, chúng tôi cố gắng đảm bảo phần nào tính đối ngẫu có trong nguyên tác. Mặc dù không thể hiện hết tất cả các ý tứ từ bản Hán văn, song với mong muốn gửi gắm một bản dịch phù hợp, toát lên được “cái hay” của thể văn biền ngẫu ở sách phong, do đó chúng tôi cũng chuyển ngữ, dịch thuật theo tính đối của thể tài ấy. Chẳng hạn, câu biền ngẫu chuẩn đối mở đầu viết:
“Chu hữu thứ bang chi kiến, phiên bình thị tư; 周有庶邦之建, 藩屏是資
Hán hữu đồng tính chi phong, thái bàn tăng tráng. 漢有同姓之封, 泰磐增壯
Chúng tôi tạm dịch là:
Nhà Chu tạo nước chư hầu, cậy nhờ phên giậu;
Triều Hán phong người cùng họ, vững chãi thái bàn.
Hoặc như câu gần cuối:
Vi thần vi tử, vĩnh hoài trung hiếu chi di; 為臣為子,永懷忠孝之彝
Nhi thân nhi gia, trường hạ sủng quang chi tích. 而身而家,長荷寵光之錫.
Chúng tôi tạm dịch:
Là thần, là tử, mãi ấp ôm trung hiếu phép khuôn;
Bèn thân, bèn gia, luôn khắc ghi thưởng cho ân sủng.
Việc dịch thuật những thể loại này thực sự rất khó khăn, bởi nếu muốn chuyển tải hết ý tứ trong văn ngôn của sách phong, thì phải dịch suông ý, kèm với một hệ thống chú thích chú giải. Tuy nhiên, nếu dịch suông thì sách phong sẽ thiếu tính hấp dẫn, thu hút người đọc. Vì thế, dẫu biết dịch theo đúng thể tứ lục sẽ mất ý, thiếu tứ, nhưng chúng tôi ở mức độ nào đó phải chấp nhận mất mát một chút, một phần hàm ý sâu xa, nhằm để gửi gắm và chuyển tải được nội hàm của bản sách phong một cách phù hợp, tốt nhất.
Một điều xin được bàn thêm về vấn đề văn bản của bản sách phong ban cho Lạc Hóa quận công này, đó là câu chuyện “cải cấp” (đổi cấp sách phong) sang đồng sách (sách phong bằng đồng). Trước nay, không ít nhà nghiên cứu lấy nguyên do rằng việc đổi cấp sách phong trên là do triều đình nhà Nguyễn dưới triều vua Tự Đức, sau khi thua Pháp, đã phải thu lại tất thảy các loại vàng bạc đá quý (trong đó có Kim sách, Ngân sách...) để bồi thường chiến tranh cho quân Pháp. Tuy vậy, nếu thực sự có điều đó, thì việc bồi thường chiến phí phải xảy ra sau Hòa ước Nhâm Tuất (1862)13. Trong khi đó, việc đổi cấp sách phong này xảy ra vào tháng 6 (âm lịch) năm Tự Đức thứ 11, tức Dương lịch là năm 1858. Vậy nên, theo chúng tôi, vấn đề đổi cấp sách phong qua thể đồng sách khó có liên quan đến việc bồi thường chiến phí, và cũng không thể vì sau đó 4 năm (1862) có hòa ước Nhâm Tuất, để bảo rằng vua Tự Đức đã tính trước việc lo liệu bồi thường.
Về lý do đổi cấp qua đồng sách (sách phong bằng đồng) như sách phong Lạc Hóa quận công (cùng sách phong cho Diên Phước công chúa Tĩnh Hảo - con gái đầu vua Thiệu Trị; cũng được đổi cấp ngày 19 tháng 06 năm Tự Đức 11) ghi: “Tự Đức thập nhất niên lục nguyệt thập cửu nhật, cải cấp” 嗣德拾壹年陸月拾玖日改給 (ngày 19 tháng 06 năm Tự Đức thứ 11 (1858), đổi cấp), sau khi tra cứu thông tin từ Đại Nam thực lục (đệ tứ kỷ, quyển XVIII: Thực lục về Dực Tông Anh Hoàng đế), chúng tôi đã tìm được một thông tin có liên quan, chép rằng:
“Mậu Ngọ, Tự Đức năm thứ 11 [1858], Tháng 6…: Phủ Tôn Nhân tâu xin: Những thân vương, quân vương, hoàng thân, công chúa đã quá cố, những sách phong bằng vàng, bằng bạc nguyên trước được cấp và sau này truy tặng đổi làm sách bằng lụa màu để thờ.
Vua bảo rằng: Làm sách phong bằng lụa, e là vật không để lâu được, chẳng khỏi lại phải đổi cấp. Sai bộ Lễ bàn nghĩ Phước tâu. Sau bộ Lễ tâu rằng: Những vương công, quý chúa được phong tặng sách ấn (hoặc dùng vàng mạ hay dùng thuần bạc) là muốn cho giữ được Phước ấm lâu đời. Song sau khi chết đi, con cháu chẳng khéo giữ gìn như Thiệu Hóa đình hầu Tôn Thất Thiện Khuê, đến nỗi bộ Lại nghị tội, mà đổi cấp sách bằng lụa màu, sau vài ba năm mọt nát phai nhạt, phải đổi cấp luôn thêm phiền. Xin dùng thử đồng lá màu vàng của bản xứ chế làm sách văn, để được lâu dài về sau. Vua y cho làm”14.
Như vậy, qua thông tin từ Đại Nam thực lục, chúng ta thấy rằng các sách phong bằng vàng bạc vốn được cấp, thì Phủ Tôn Nhân tâu xin đổi cấp thành Thể sách (sách bằng lụa màu) để thờ. Song, vua không đồng ý, vì sách phong bằng lụa không để lâu được. Nhà vua bèn sai Bộ Lễ luận bàn và Bộ Lễ đề xuất dùng đồng lá màu vàng của bản xứ chế làm sách văn, để được lâu dài về sau. Đề xuất ấy được hoàng đế Tự Đức chuẩn y cho thực hiện. Thế nên, từ đây (tháng 6 năm Tự Đức thứ 11 - tức năm 1858), việc đổi cấp thành đồng sách có lẽ được triều đình thực hiện đồng bộ, diễn ra khắp các Phủ Phòng, theo tinh thần được ghi chép tại Đại Nam thực lục, chứ không phải vì liên quan đến việc bồi thường chiến phí. Đấy chính là điều mà chúng tôi xin cung cấp và có phần lưu ý, đề xuất để quý độc giả, các nhà nghiên cứu tránh hiểu nhầm, và phần nào đó là “quy trách nhiệm” cho hoàng đế Tự Đức.
Nói tóm lại, bản đồng sách ban phong cho Lạc Hóa quận công là một trong những tư liệu quý, có giá trị không chỉ về văn chương nghệ thuật thời Nguyễn, mà còn chứa đựng nhiều thông tin thú vị liên quan đến đặc trưng thể loại của hệ thống văn bản hành chính ban phong ở triều các vua Nguyễn. Bên cạnh đó, việc “đổi cấp” sách phong vào ngày 19 tháng 06 năm Tự Đức thứ 11 (1858) được ghi chép trên đồng sách cũng là điểm nhấn đáng lưu ý, góp phần nhận diện lại, hiệu chỉnh lại những nhận thức và quan niệm trước đây về “sai lầm” của vua Tự Đức. Thực tế thì việc đổi cấp sách phong thời điểm nói trên chẳng liên quan gì đến việc bồi thường chiến phí về sau, mà đó chỉ là thông lệ được hoàng đế Tự Đức cho phép Tôn Nhân phủ và Bộ Lễ nghị bàn, thống nhất. Bản sách phong ban cấp cho Lạc Hóa quận công Miên Vũ này của Phủ Lạc Hóa, là một hiện vật được triều đình đổi cấp để truyền đời thờ tự, và sách phong ấy đã thực hiện rõ chức năng của mình từ hơn 150 năm nay. Đó là điều đáng tự hào và trân quý. Chúng tôi hy vọng rằng qua bài viết trên đây, thông tin tư liệu về sách phong Lạc Hóa quận công nói riêng, hệ thống sách phong triều Nguyễn nói chung càng được quan tâm và lan tỏa nhiều hơn nữa, góp phần hữu ích cho quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về di sản triều Nguyễn thời gian tới.
V.V.Q
(TCSH415/09-2023)
---------------------------------
1 Quốc sử quán Triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, tập 3 (Bản dịch Viện Sử học), Nxb. Thuận Hóa, tr.119.
2 Để biên soạn các thông tin này, chúng tôi tham khảo bài viết “Thân Thế ngài Lạc Hóa quận công” trên trang của Phòng Lạc Hóa, link: https://www.phonglachoa.com/khoi-toc
3 Thứ bang 庶邦: vùng đất thuộc quyền thống trị, cai quản của mình, tức ở đây, có thể hiểu là các nước chư hầu (侯眾國 chư hầu chúng quốc) của Nhà Chu.
4 Phiên bình 藩屏: Phên giậu (vua các nước Chư hầu, hoặc các trọng thần [bề tôi trọng yếu - có chức vụ và vai trò vị thế cực kỳ quan trọng trong nước], hay người đứng đầu ở các vùng đất được phân phong - tức còn gọi là Phân phiên 分藩), dùng để che chở cho quốc gia. Sách Kinh Thi 詩經, Đại Nhã 大雅, chương Bản 板 có câu: “价人維藩,大師維垣,大邦維屏,大宗維翰” (Giới nhân duy phiên, đại sư duy viên, đại bang duy bình, đại tông duy hàn) nghĩa là: Người tài là phên giậu [của đất nước], Quân dân đông đúc là tường thành [che chở], nước lớn là bức bình phong [che chắn cho quốc gia], tông tộc lớn là trụ cột của đất nước. Sách Tả truyện 左傳, mục Hỷ công nhị thập tứ niên 僖公二十四年 có câu: “Tích Chu Công điếu Nhị thúc chi bất hàm, cố Phong kiến thân thích dĩ phiên bình Chu” 昔 周公 弔二叔之不咸,故封建親戚以蕃屏 周 (xưa, Chu Công [Cơ Đán] thương xót hai triều đại [Hạ - Ân] đã suy chẳng còn gì, cho nên việc phân phong tước, kiến tạo đất đai cho các vị thân thích ấy là dùng để làm phên giậu che chắn cho nhà Chu).
5 Đồng tính 同姓: cùng chung họ tộc [con cháu trong dòng tộc, như: tử tính 子姓 là con cháu trong họ].
6 Thái bàn 泰磐: vững vàng như tảng đá lớn, chúng ta hay gọi là “an như bàn thạch” 安如磐石 (yên vững như tảng đá) cũng theo ý đó.
7 Tức Kinh Lễ, Kinh Thi (Hai bộ sách kinh điển trong số Ngũ kinh - Tứ thư) - phiếm chỉ học hành đạo lý chữ nghĩa đầy đủ.
8 Nghiêm huấn 嚴訓: lời dạy dỗ (huấn dụ) nghiêm minh.
9 Công đạo 公道: đạo lý/chân lý công bằng, phân minh.
10 Điển tắc 典 則 : điển chương phép tắc, tức các quy định quy chuẩn phép tắc rõ ràng của đất nước (như triều Nguyễn thì có sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ghi chép rõ ràng các phép tắc điển chương).
11 Là thần, là tử: dịch từ “vi thần, vi tử” 為 臣 為 子 : phận là bề tôi, là con cái. Do chúng tôi dịch theo thể tứ lục, nên nếu dịch “là tôi, là con” thì nhịp văn và âm điệu không chuẩn. Vì thế nên chúng tôi ghi “là thần, là tử” để âm điệu phù hợp hơn.
12 Cũng giống câu “là thần, là tử” trên, chúng tôi giữ nguyên chữ trong nguyên tác “thân - gia” để nhịp điệu câu tứ lục được phù hợp, và dịch thành “Bèn thân, bèn gia” (ấy là chính mình/thân mình - ấy là gia đình).
13 Ngày 01 tháng 09 năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha mới bắt đầu nổ súng tấn công vào bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Như thế, việc Pháp tấn công sau ngày vua Tự Đức cho đổi cấp Đồng sách tầm 2 - 3 tháng.
14 Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 7 (Viện Sử học dịch), Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, tr.561.
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)