Về Phú Vang sau lũ

15:15 01/11/2009
DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.

Trên đường, chúng tôi bắt gặp những khuôn mặt khắc khổ, ngơ ngác đến bàng hoàng như người ở trần gian khác đang lặng lẽ rải những bao lúa đã lên mộng ra mặt đường để phơi, hy vọng thu lại chút cháo hồ thành quả sau vụ mùa bội thu vừa rồi. Những vòng khăn tang lấm bùn trên gương mặt những đứa trẻ chưa biết đau thương là gì đang lặng lẽ rũ từng trang chữ ra hong phơi. Những người đàn ông mình trần đen sạm chỉ bận độc chiếc quần đùi, vấn trên đầu vòng tang oan nghiệt đang tìm nhặt những gì còn lại có thể vực lên một túp lều tạm cho con trẻ ẩn mình, và lấy chỗ che vong linh hương hồn người thân vừa quá cố... Lúc chúng tôi đến huyện, Phú Vang vừa đưa xong tang cho người thứ 87. Ông La Đình Mão Chủ tịch ủy ban nghẹn ngào xòe hai bàn tay, lắc đầu: " Tài sản, công sức hàng chục năm của nhân dân vùng trũng coi như trắng. Người chết, bị thương, nhà trôi, nhà sập, nhà ngập trong nước, rồi điện, đường, trường, trạm, thuyền bè, lưới cụ, đê điều¸ giống má, trâu bò, lợn gà, các công trình văn hóa, mồ mả tổ tiên... tổn thất hư hại nhiều nhiều vô kể"... Tiễn chúng tôi ra cửa để đi xuống xã, ông Mão còn nói thêm như sợ chúng tôi quên: " Các anh nhớ ghé vào đồn biên phòng cảng nghe. Nếu không có những người lính hành động anh hùng quả cảm ấy, chắc chắn trận lụt này dân vùng Thuận An đã bị nước cuốn trôi đến hàng ngàn người"...

Trận lụt thế kỷ này Phú Vang là huyện bị thiệt hại nặng nhất, vùng Thuận An là nơi tổn thất nặng nề nhất của Phú Vang, mà hậu quả để lại không biết bao giờ mới khôi phục được một phần như xưa. Về Thuận An, trước khi ghé thăm lính biên phòng chúng tôi chạy băng ra biển, nơi vừa bị lũ mở thêm một cửa mới. Chỗ này cách độ một tuần, phía ngoài là bãi tắm sạch, điểm nghỉ ngơi lý tưởng cuối ngày cuối tuần của người dân địa phương và du khách từ Huế xuống, bên trong là Eo Bầu tạo thành vịnh nhỏ nơi neo tàu của Hải đội 2 biên phòng, chỗ tránh mưa bão khá an toàn của thuyền bè ngư dân đầm phá. Vậy mà chỉ sau một đêm mưa lũ đầy trời, con nước cương cường phóng thẳng về phá vỡ Eo Bầu cuốn phăng tất cả: mở ra một cửa biển mới lấy tên làng Hòa Duân. Cửa Hòa Duân dài 1000 mét, rộng gần 100 mét, chỗ sâu nhất đo được 8 mét. Cửa biển mới này cắt đứt Quốc lộ 49 B có nghĩa là cắt đứt con đường bộ huyết mạch nối trung tâm tỉnh lỵ với các xã vùng xa của Phú Vang và khu III của huyện Phú Lộc. Từ đây người dân miền cát này lại vò võ trông ngóng, không biết đến bao lâu nữa ô tô mới chạy về được vùng văn hóa Thúy Vân, Linh Thái, Tư Hiền, về với căn cứ địa kháng chiến cách mạng. Và hiển nhiên dòng chảy cửa biển mới sẽ làm thay đổi luồng lạch, bồi lắng gây trở ngại và nguy hiểm không thể lường trước của những con tàu vào ra cảng Thuận An làm thay đổi hệ sinh thái nước lợ đầm phá.

Nhìn những con sóng bạc rượt đuổi nhau chạy tràn vào lòng phá, tôi nói với nhà văn Quang Hà cùng nhà thơ Khắc Thạch đang bậm chân vào cát ở cửa mới: " Bên kia là đường cơ giới về quê nhà văn Hồng Nhu. Mảnh đất nghèo linh thiêng nhưng rất cách mạng ấy cũng là quê ông Nguyễn Chí Vu, ông Trần Xuân Giá, và bao người khác. Vậy là..." Cũng tại cửa Hòa Duân, nước lũ hung dữ đã cuốn trôi 64 ngôi nhà, làm chết 14 người: trong đó có hai chiến sĩ Hải đội 2 biên phòng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ cứu dân. Liệt sĩ Phạm Văn Điền, liệt sĩ Lê Đình Tư, gia đình ông Trần Văn Cử 59 tuổi chết cả 12 người. Ngôi nhà gia đình ông Cử trú nằm ở vị trí khá cao, khi nước rút chúng tôi đến nơi ngôi nhà chỉ còn lại một dầm sắt cong queo vùi trong cát, chính cát đã giữ lại với đất liền một thân xác trẻ nhỏ duy nhất của gia đình ông. Chúng tôi cúi mình thắp những nén hương cắm sâu trong cát, đứng im vọng ra biển! Nơi ấy bây giờ chân hương mỗi ngày mọc dầy thêm như cỏ tranh do nhân dân cùng những người lính đến viếng đồng đội đồng bào cắm xuống cầu nguyện. Ngoài kia biển vẫn xanh dịu hiền và bí hiểm... Chúng tôi đi lên phía làng  Hải Thành nơi tiếp giáp với cửa Hòa Duân. Sóng lũ cuồn cuộn về đây đánh bật những khu lặng mộ họ Lê, phá vỡ bình phong, nền móng, tường rào nhà thờ họ Đào, xóa mất con đường bê tông chạy vòng quanh làng để lại những hang hốc sâu hoắm. Một cụ già giữ nhà thờ họ Đào vừa thoát chết, thốt lên với chúng tôi: " Trận đại hồng thủy này quá dữ dội, không có trong phổ ký họ chúng tôi vài trăm năm trở lại"...


(Nhà bạt Công an tỉnh cấp cho dân - Ảnh: Đào Hoa Nữ)


Chúng tôi vào thăm đồn 220. Trung tá Vũ Văn Uy, Đồn phó Chính trị quê ở Thái Bình thuật lại: " Trong đêm mưa gió mù trời, nước lũ dâng cao và nhanh chưa từng thấy, đơn vị bị mất liên lạc, chúng tôi phải dùng cả pháo lệnh bắn liên tục để xác định mục tiêu cứu dân. Đơn vị huy động hết 40 cán bộ chiến sĩ lao vào mưa lũ, cùng với chính quyền địa phương đưa 70 người ở khu vực cửa mở cứu thoát 50 người đang trôi dạt trên gọ vào bờ. Sang ngày hôm sau cùng với công an khu vực Hải Thành dùng dây giăng quanh gốc thông già, thả thuyền nhôm áp sát vào dây, trườn ra khu vực dân đang mắc kẹt ở cách xa bờ khoảng 300 mét trên một ngôi nhà, lúc ấy chỉ còn lại đỉnh mái giữa cửa mở, cứu được 45 người. Đây là sáng kiến kịp thời và lòng dũng cảm không sợ chết của hai anh Trần Nghi Hà, Trần Văn Nam thanh niên làng Hải Thành. Khi đưa được người cuối cùng vào bờ thì đúng lúc lũ cuốn trôi ngôi nhà kiên cố đó. Đồn 220 còn vận động300 bà con chủ yếu người già, trẻ nhỏ và các gia đình bị mất nhà đưa lên đồn trú ẩn. Trong suốt thời gian mưa lũ, đơn vị đã tổ chức lo ăn cho gần 400 người, với phương châm " Quân ăn gì- Dân ăn nấy". Lúc chúng tôi vào đồn, đơn vị vừa giao trả lại 22 con trâu 7 con bò vớt được cho dân bên kia bờ phá, cùng 2 xe máy và một số đồ dùng ngư cụ khác. Bàn giao 14 đối tượng vừa tạm giữ, người từ phường Phú Bình Huế dùng 4 thuyền máy xuống Thuận An lặn, vớt tài sản của dân cho công an tỉnh xử lý. Tại trụ sở ủy ban Thị trấn Thuận An, anh Nguyễn Vĩnh Kiên, chủ tịch, bơ phờ vì thiếu ngủ đang chủ trì cuộc họp khẩn với các trưởng thôn. Khi làm việc với chúng tôi, anh cứ bóp đầu suy tư mãi để mong tìm ra một câu thật hay để nói về tấm lòng biết ơn của người dân Thuận An với các chiến sĩ đồn biên phòng cảng. Rồi anh quay lại hỏi chúng tôi: " Các anh có biết chuyện thị trấn Thuận An phải " cứu đói" cho đồn biên phòng chưa? Hẳn chưa chứ: đơn giản là dân chúng tôi trong mấy ngày chạy lũ đã ăn hết những gì có thể ăn được của đồn này".

Anh Kiên khàn giọng kể: So với Huế, lũ về đây chậm nửa ngày. Chính vì vậy mà dân Tân Cảng, Tân Mỹ, cả công nhân cảng ở Phú Tân lại chủ quan. Đến 2 giờ chiều 2- 11, dân ở đây vẫn không chịu sơ tán. Họ cho rằng lũ không bao giờ đến đây được. Nhưng họ đã nhầm, chỉ khoảng giờ sau nước đã dâng cao cả mét, cắt đứt mọi liên lạc, nhưng họ vẫn yên chí đóng cửa cố thủ trong nhà. Tình hình ấy, đồn biên phòng cảng do thiếu tá Nguyễn Tiến Hóa, đồn phó chỉ huy, cùng thiếu úy chuyên nghiệp Nguyễn Hồng Hải, thiếu úy Hoàng Hải Quân lái bo bo đến từng nhà yêu cầu bà con sơ tán gấp. Một vài gia đình nghèo ở thấp đã theo các anh ngay từ lúc đầu, một vài nhà ở cao thì cười, còn đa số cố thủ trong nhà vì sợ trôi của cải mà họ đã chắt bóp cả đời người. Mưa mỗi lúc một lớn, gió thổi mạnh, nước dâng nhanh lại chảy rất xiết. Thoáng chốc cả vùng Thuận An ngạp băng dưới lũ, trời tối đen như hủ nút, rét lạnh đã ngấm sâu vào người. Cùng lúc ấy các anh nghe tiếng kêu cứu gần như đồng loạt, tiếng đập soong nồi báo hiệu. Trong cơn nguy đến cái chết, tiếng kêu cứu nghe như dao cắt xé ruột của đồng loại, và chiếc bo bo lao đi trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ắc quy dưới luồng nước xiết. Các anh phải đến từng nhà, có nhiều nhà phải dỡ ngói, phá cửa mới kéo được người ra. Dù khẩn cấp nhưng chiếc bo bo cũng chỉ chở được mỗi chuyến từ 10- 12 người, phải tuyệt đối an toàn để giữ mình mới có cơ cứu được hết dân. Đến gần 3 giờ sáng 3- 11, các anh Hóa, Hải, Quân vừa đói, lạnh, vừa quá mệt nên phải thay ca. Đồn trưởng Nguyễn Xuân Vị chỉ huy, chiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn lái bo bo thay phiên lao đi trong sức gầm mưa lũ. Cứ đi, về từng chuyến, đến sáng thì các anh đã cứu thoát và đưa về đồn trú 530 người, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, người già. Những người thoát lũ bình tĩnh hơn khi họ đứng trên điểm cao của đồn nhìn ra tứ bề, người ta chỉ thấy nước và nước bạc đã phủ kín nóc nhà của họ... Với gần 600 người tránh lũ đói rét, suốt trong hai ngày một đêm, ăn uống sinh hoạt như vậy thì có nước cũng không đủ chứ chưa nói đến lương thực. Các anh ấy cũng đói rét như dân chạy lụt vậy.

Anh Kiên kết luận: "Tập thể ấy, những người lính ấy thật xứng danh anh hùng! Tôi cứ nghĩ, nếu như đêm ấy không có họ, hoặc giả trễ nãi, thì..."

Khi gặp thiếu tá Nguyễn Tiến Hóa ở trước cổng đồn, tôi hỏi anh: " Tất cả cán bộ chiến sĩ cứu dân đêm ấy họ đều là đảng viên chứ?" Hóa lắc đầu- Không, còn Quân và Tuấn hiện là đoàn viên ưu tú, các anh đã qua lớp bồi dưỡng đối tượng rồi.

Một người dân đang nạo vét bùn gần đấy nghe được câu chuyện của tôi với Hóa, ông ngừng tay nói ngang: "Nhà báo hỏi răng lạ. Đảng viên, đoàn viên không cần biết, với tôi và cả dân vùng này, các anh ấy đều là những người Cộng Sản!"

Đứng trước ủy ban nhìn ra, tôi như thấy được tấm lòng của nhân dân cả nước đang hướng về Thuận An qua những chuyến hàng cứu trợ. Không chỉ có lương thực, áo quần, tiền bạc, mà lớn hơn sâu thẳm hơn là nghĩa tình nhân ái, trách nhiệm cộng đồng đùm bọc lấy nhau vượt qua cơn hoạn nạn của cả dân tộc này.

Ngoài kia biển vẫn xanh, mây trời vẫn vần vũ, mất mát đau thương đói khổ còn đó, nhưng lòng người Thuận An qua cơn thoát lũ đã phần nào thấy ấm hơn.

Huế 13-11
D.P.T 
(130/12-1999)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN NHÃ TIÊN                         Bút ký"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ. Hưng tộ diên trường ức vạn xuân". Nghĩa là: đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân.Không hiểu những tương truyền về "sấm ký" Trạng Trình "ứng nghiệm" đến dường nào, đâu là nguyên bản và thực hư ra sao? Có điều, chúng tôi đang viếng thăm làng quê Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo - quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng vào cái khoảng thời gian "sau năm trăm năm" ấy, và nhất là vào giữa cái kỳ gian mà đất nước đang từng ngày" Hưng tộ diên trường ức vạn xuân".

  • TRẦN HOÀNGTrong tiếng Việt, từ "Văn vật" là một từ thuộc nhóm từ gốc Hán và cùng tồn tại song song với các từ: Văn hoá, Văn hiến, Văn minh. Người xưa thường dùng từ này để nói, viết về truyền thống văn hoá của một vùng đất, hoặc của một địa phương. Chẳng hạn, lâu nay, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã có câu: "Thăng Long là đất ngàn năm văn vật". Song có lẽ từ "Văn vật" xuất hiện nhiều nhất trong các cụm từ "làng văn vật", "danh hương văn vật". Điều này cho thấy từ xa xưa, tổ tiên ta đã rất quan tâm đến "văn hoá làng" và "làng văn hoá".

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử loài người, có những bức tranh, những pho tượng lấp lánh toả ánh hào quang lặng im của chúng trong sự lâu bền của năm tháng. Có những ký ức có thể thi gan cùng vĩnh cửu. Nhưng có lẽ, ngôn từ có sức mạnh riêng mà không một thách thức nào, dù là của không gian hay thời gian có thể làm nhạt nhoà những âm vang của nó. Tất nhiên, một khi nó đã đi vào trái tim và khối óc của con người. 1034 chữ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một trong những áng ngôn từ có sức sống bền vững với thời gian như thế.

  • TRẦN QUỐC TOẢN Tôi sinh ra và lớn lên giữa làng Hến bé nhỏ bên bờ sông La xã Đức Tân (tức Trường Sơn ngày nay) huyện Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh. Qua sự nhọc nhằn của cha, vất vả của mẹ đã đút mớm cho tôi từng thìa nước hến, bát cháo hến để rồi tôi lớn dần lên.

  • HỒ TƯNằm trên dải cát ven phá Tam Giang, từ xưa làng tôi cũng đã có một ngôi đình. Đến năm 1946, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, Chính quyền cách mạng đã vận động nhân dân triệt phá ngôi đình để tránh cho Tây khỏi làm nơi trú đóng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Đất nước ta, miền Bắc và miền nối liền nhau bằng một dải đất dài và hẹp gọi là miền Trung. Dãy Trường Sơn chạy dọc biên giới phía Tây như một cột sống vươn những chi nhánh dài ra tận biển Đông, làm thành những đèo, trong đó hiểm trở là đèo Hải Vân.

  • PHẠM TIẾN DUẬT1.Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, khi nghiên cứu về dân tộc học, có luận điểm cho rằng, trong quá trình định cư dần dà từ Bắc vào Nam, các cộng đồng, một cách tự nhiên, hình thành từng vùng thổ âm khác nhau.

  • PHAN THUẬN AN.Nhiều người từng đến Lăng Cô hoặc nghe nói đến địa danh Lăng Cô, nhưng ít ai biết rằng vua Khải Định là người phát hiện ra khu du lịch nghỉ mát này.Có thể nói vua Khải Định là ông vua thích du lịch nhất trong số 13 vị vua triều Nguyễn (1802- 1945). Trong đời mình, nhà vua đã đi du lịch nhiều nơi tring nước và cả nước ngoài nữa.

  • Thiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • Anh tôi đang giàu lên với nghề nuôi rắn độc, bị con hổ mang hỏi thăm vào tay. Mấy tiếng đồng hồ cáng tắt qua các cánh rừng đến bệnh viện huyện được cứu sống, nhưng vết thương bị hoại tử, hơn tháng sau mới xuất viện, tiêu tốn hơn chục triệu. Năm sau anh tôi lại bị chính con hổ mang ấy hỏi thăm ở tay kia. Lần này thì tôi đánh xe đi mời thầy thuốc rắn bản Lúng.

  • Đó là làng Lệ Mật thuộc xã Việt Hưng, (thị trấn Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Làng này có nghề nuôi bắt rắn, tới nay đã qua 900 năm.

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, trải Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình.

  • "Sang Xuân ta sẽ ăn Tết khai hạ vào ngày mùng 7 tháng Giêng".     Vì sao vua Quang Trung dám tuyên bố cả quyết như trên trước mặt ba quân? Tất cả bí mật của cuộc hành binh khôi phục Thăng Long đều được "gói trọn" trong một chiếc bánh chưng.

  • LGT: Nhà văn Thái Vũ với những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Cờ nghĩa Ba Đình, Biến động - Giặc Chày Vôi, Huế 1885... nay đã gần 80. Tuổi già sức yếu song ông đã hoàn thành tập Hồi ức, gồm 4 phần dày dặn. Trong đấy phần II: HUẾ - QUẢNG NGÃI VÀ LK5 là những trang hồi ức đầy “xốn xang” trước và sau CM tháng Tám.Sông Hương xin trích đăng một phần nhỏ gửi tới bạn đọc nhân kỷ niệm ngày CM tháng Tám thành công và Quốc khánh 2 – 9. 

  • Nếu kể cả những công trình nghiên cứu văn hóa, địa lý, lịch sử có đề cập đến các địa danh ở các tỉnh Trung Trung Bộ thì xưa nhất phải kể đến “ Ô Châu cận lục” của Dương Văn An đời Mạc chép về sông núi, thành trì, phong tục của  xứ Thuận Quảng, từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Kế đến là “ Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn tập hợp những tài liệu về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa trong thời gian làm đô đốc xứ Thuận Hóa cuối thế kỷ 18.