Vãng Đà Nẵng quân thứ tức sự

08:59 06/01/2012
L.T.S: Những tác phẩm văn học chống xâm lược Pháp được biết xưa nay thường xuất hiện từ 1858, thời điểm tàu Pháp tấn công vào cảng Đà Nẵng.

Chân dung Đặng Huy Trứ - Ảnh:TL

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Bài thơ này của Đặng Huy Trứ làm vào tháng 10 Bính Thân 1856, trước cả những bài thơ, văn chống Pháp của Phan Văn Nghị, Bùi Hữu Hiền, Nguyễn Đình Chiểu…, lúc Đặng Huy trứ (người làng Bác Vọng, Phong Điền, Thừa Thiên) mới 31 tuổi, quan hậu bổ, được phái đi xem xét tình hình tàu thuyền ở cửa Đà Nẵng. Bài thơ do ông Phạm Tuấn Khánh tìm được và gởi tới Sông Hương. Chúng tôi sẽ giới thiệu công trình nghiên cứu Đặng Huy Trứ trong một số sau.



ĐẶNG HUY TRỨ


Vãng Đà Nẵng quân thứ tức sự


Như kim Đà Nẵng nhất dương di
Hạp cảnh binh dân bôn mệnh bì.
Cửu nguyệt tam thu hàn lạo hậu
Thiên môn vạn hộ khiết khung kỳ,
Tây chinh sĩ khí phong sương khổ
Nam cố thần trung tiêu cán ti (tư)
Nhục thực ngã như mưu vị quốc
Chiến hòa dữ thủ thục cơ nghi.



Dịch nghĩa:


Ghi lại việc đi quân thứ Đà Nẵng


Nay bọn mọi Tây đến Đà Nẵng
Quân và dân chẳng quản nhọc mệt để giữ gìn bờ cõi
Sau cơn lụt tháng chín cuối thu, trăm nhà vạn hộ mất sạch
Chinh phạt bọn Tây sĩ khí nề chi sương gió
Đoái trông về Nam lòng vua ngày đêm lo nghĩ
Ăn lộc nước, ví bằng cùng lo việc nước
Chiến, hòa và giữ, kế nào hơn.


(19/6-86)








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật

  • ĐẶNG BÁ TIẾN

  • LTS: Những nhịp đi cổ điển, những thi ảnh cũng như nhuốm màu cổ điển, nhưng gần như lại không bước ra từ cổ tích, mà từ cuộc sống bộn bề. Ba người đàn bà trong những bài thơ dưới đây, từ ba câu chuyện khác nhau, với những không gian khác nhau, nhưng họ chung một nỗi rất đàn bà: yêu, chờ đợi, và hy vọng trong cô đơn…

  • Vũ Dy - Nhất Lâm - Nguyễn Nhã Tiên - Trần Thị Tường Vy - Châu Thu Hà - Nguyễn Miên Thượng - Nguyễn Hàn Chung - Phan Lệ Dung - Vương Kiều

  • Anh Nguyễn Hữu Đống là bạn của nhiều lớp văn nghệ sĩ, nhất là ở Huế. Từ Trịnh Công Sơn, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Viết Ngạc, Đặng Tiến, Trụ Vũ… đến nhiều người thuộc lứa sau như Nguyễn Chí Trí, Vĩnh Ba, Nguyễn Thượng Hải, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Lê Huỳnh Lâm, Bạch Lê Quang, Phạm Tấn Hầu…

  • Tôi là Nguyễn Văn Phong. Sinh năm 1985. Quê quán: xã Hà Ninh, Hà Trung, Thanh Hóa. Hiện sống cùng thân sinh. Làm ruộng, lao động phổ thông. Không dùng điện thoại di động. Đây là một số bài thơ lần đầu tôi gửi đến Tạp chí Sông Hương.


  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

  • Mai Văn Phấn - Phạm Đức Mạnh - Hồng Vinh - Nguyên Ngọc - Tôn Nữ Minh Châu

  • LTS: Nhà thơ Nguyễn Xuân Sang quê quán ở An Hòa - Huế, anh đã xuất bản 04 tập thơ & 01 tập phóng sự, ghi chép; từng đạt một số giải thưởng các cuộc thi.

  • LGT: Machu Picchu của đế quốc Inca, núi thiêng Mỹ Sơn của vương quốc Chămpa có cùng số phận đỉnh cao một nghệ thuật kỳ vĩ bị chiến tranh và thời gian tàn phá.


  • Nguyễn Trọng Tạo - Phùng Tấn Đông - Đỗ Xuân Thu


  • NGUYỄN VIỆT CHIẾN

  • Nguyễn Đông Nhật - Từ Hoài Tấn - Trần Hoàng Phố - Phan Trung Thành - Phùng Sơn - Lê Hồ Ngạn

  • LTS: Trước những thử thách của nhiều trường phái thơ hiện đại, xem ra thơ lục bát Việt Nam vẫn sống khỏe. Nó thậm chí không nhất thiết phải phân biệt rạch ròi “hậu lục bát Truyện Kiều”, “hậu lục bát Lửa Thiêng” hay “hậu lục bát Bùi Giáng”. Tuy vậy để được ghi tên tác giả dưới những âm tiết quen thuộc, dễ nhớ đó… ắt tâm hồn người thi sĩ phải gạn đục khơi trong bao lần.