Ảnh: Internet
1. Số lượng tác phẩm và những vấn đề của văn xuôi. Từ lâu, bạn đọc cả nước nghĩ về Bình Trị Thiên, về Huế thường cho rằng đây là vùng đất của thơ ca. Điều ấy rất đúng. Vì chính nơi đây có truyền thống về thơ. Nhiều nhà thơ có tên tuổi đã sinh ra, trưởng thành trên “xứ mơ màng, xứ thơ” này. Không những thế, Bình Trị Thiên, Huế còn là nơi “đất lành, chim đậu” cho nhiều văn nghệ sĩ trên cả nước chọn làm “quê hương thứ hai” của mình trong sáng tạo nghệ thuật. Văn xuôi Bình Trị Thiên những năm qua, đã kế thừa những thành công của văn xuôi kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đồng thời đã tạo nên những nét mới góp phần làm rạng rỡ khuôn mặt văn học ở một vùng đất miền Trung vốn nổi tiếng kiên cường, bất khuất và chuộng thơ văn… Bảy năm qua, thời gian tuy không dài nhưng văn xuôi đã phát triển khá mạnh. Đó là điều đáng chú ý. Hàng trăm truyện ngắn, bút ký, hàng chục chương trích trong các cuốn tiểu thuyết đã xuất hiện trên tạp chí “Văn nghệ Bình Trị Thiên”. Trong số lượng không nhỏ tác phẩm ấy, nhiều bút ký, truyện ngắn, được sách báo Văn nghệ Trung ương sử dụng. Các nhà xuất bản trung ương đã in những đầu sách như: “Dòng sông phẳng lặng” tiểu thuyết tập II và III của Tô Nhuận Vỹ, “Đường qua làng Hạ”, “Đường giáp mặt trận” và “Chỗ đứng người kỹ sư” của Nguyễn Khắc Phê, “Thương” tiểu thuyết của Trần Công Tấn. Các tập truyện ký: “Rất nhiều ánh lửa” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, “Đa Ra nơi đâu” của Trần Công Tấn và “Huế những ngày nổi dậy”, “Cô gái vùng ven”, “Đất đang gieo”, “Ở mỗi một người” của nhiều tác giả mà trong đó phần lớn cây bút ở Bình Trị Thiên tham gia đã ra mắt bạn đọc. Bên cạnh số sách do Trung ương in, Hội Văn nghệ Tỉnh và nhà xuất bản Thuận Hóa đã chủ động xuất bản các tập văn xuôi sau: “Trong tiếng còi tàu”, “Những ngôi sao lấp lánh” của nhiều tác giả, “Dưới chân thành cổ” của Đinh Duy Tư, Thanh Ba, “Đất ấm” của Mai Văn Tấn, “Mùa xương rồng nở hoa” của Nguyễn Quang Hà và “Khúc nhạc rừng dương” của cây bút nữ trẻ Trần Thùy Mai… Cùng với số lượng kể trên đã in hoặc đang chuẩn bị phát hành, còn phải kể đến những bản thảo tiểu thuyết khá dày dặn của các nhà văn chuyên nghiệp như: “Miền xa kêu gọi” của Nguyễn Khắc Phê, “Ngoại ô” của Tô Nhuận Vỹ, “Thuyết” của Nguyễn Quang Hà… Điểm qua số lượng tác phẩm văn xuôi trên chúng ta có thể nhận định: ở Bình Trị Thiên bên cạnh truyền thống thơ ca, còn là mảnh đất màu mỡ cho văn xuôi phát triển. Và sự thực, văn xuôi đã tạo nên cho diện mạo văn học nhiều vẻ đẹp mới, khi phản ánh hiện thực cách mạng sôi động, kỳ diệu của tỉnh trong thời gian qua. Điều dễ nhận thấy là phần lớn tác phẩm, mà chủ yếu là truyện ngắn, bút ký đều tập trung viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ một sự kiện Bình Trị Thiên hợp nhất, sự kiện “Tàu ta kéo còi qua đầu sông Bến Hải” cũng thu hút hầu hết các cây bút văn xuôi. Thậm chí, nhà thơ Lương An cũng góp được một bút ký khá hay: “Bình Trị Thiên, một vùng đất không chia” cho đề tài này. Bên cạnh đó, văn xuôi tỏ ra nhanh nhạy khi viết về các công trình thủy lợi lớn, các cuộc chống hạn, chống lụt, phá dỡ bom mìn, tạo ra vùng kinh tế mới. Đề tài nông nghiệp được văn xuôi quan tâm đúng mức trong suốt thời gian qua và cũng từ đề tài này một số bài ký, truyện ngắn hay đã được bạn đọc trong và ngoài tỉnh biết đến và tìm đọc. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Mai Văn Tấn, Nguyễn Quang Hà, Nguyễn Khắc Phê… là những tác giả xung kích có mặt khá kịp thời phản ánh cuộc sống mới qua những trang ký đầy tính thời sự, nóng hổi của mình. Cũng trong việc thể hiện đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, một số cây bút trẻ xuất hiện và ngày càng trở nên quen thuộc với bạn đọc địa phương như Thanh Ba, Đinh Duy Tư, Trần Thùy Mai, Lê Gia Ninh, Nguyễn Cầm, Trần Lam, Vinh Nguyễn… tuy nhiên, với những tác phẩm viết về xây dựng chủ nghĩa xã hội, văn xuôi chưa có nhiều tác phẩm hay, thậm chí còn quá hiếm nữa. Trường hợp ký “Ở một hợp tác xã không tiếng tăm” của Mai Văn Tấn và truyện ngắn “Đất trả lời” của Nguyễn đắc Xuân được bạn đọc yêu thích và coi là hay chưa phải nhiều trong văn xuôi. Có tình trạng như thế cũng dễ hiểu. Bởi bản thân các tác giả tự thấy lý do chính là do vốn sống, vốn hiểu biết về hiện thực mới của nhà văn còn mỏng, khoảng cách giữa nhà văn với đời sống thực tế còn khá xa nên chưa thể có nhiều tác phẩm hay đến với người đọc. Bên cạnh mặt mạnh của truyện ngắn, ký viết về cuộc sống mới là tính thời sự, nó còn hạn chế là chưa đặt ra những vấn đề có tính xã hội sâu sắc, chưa phản ánh được chiều rộng và chiều sâu cuộc đấu tranh giai cấp phức tạp, phong phú trên các mặt trận chiến đấu, sản xuất của địa phương. Thời gian qua, văn xuôi chú trọng nhiều đến đề tài chiến đấu, nông nghiệp nhưng chưa có thành công đáng kể khi xây dựng hình ảnh con người mới xã hội chủ nghĩa đang sống và làm việc trên mảnh đất này. Tình trạng trên đây thể hiện ngay trong đội ngũ sáng tác văn xuôi. Một số tác giả do bám sát đời sống, chịu khó lăn lộn với thực tế, say mê trong sáng tạo nghệ thuật đã gặt hái được một số thành công và khẳng định được bước tiến chắc chắn của mình. Một số tác giả khác, mà phần lớn là các bạn viết trẻ, chỉ sau một vài bài ký hoặc truyện ngắn đã cảm thấy đuối sức. Vì thế, ở Bình Trị Thiên số cây bút viết văn xuôi không phải ít, nhưng hiện tượng các cây bút trẻ rơi rụng, vắng bóng dần không phải là không có. Nếu ở đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, truyện ngắn, bút ký xuất hiện nhiều thì tiểu thuyết Bình Trị Thiên lại chỉ viết tập trung về đề tài chiến tranh cách mạng. Tô Nhuận Vỹ ở hai tập tiểu thuyết, tiếp tục viết về chiến trường Thừa Thiên Huế anh hùng trong những năm tháng chống Mỹ oanh liệt. Bằng bộ ba tiểu thuyết này anh đã đóng góp cho văn học cả nước phản ánh hiện thực chiến tranh ở một vùng đất vốn nổi tiếng ác liệt và kiên cường. Cũng như Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khắc Phê thành công khi anh viết về những con đường ra trận ở tuyến lửa Khu Bốn. Với vốn sống dày dặn gần mười lăm năm trong ngành cầu đường, anh tỏ ra sung sức, dồi dào khi viết tiếp tiểu thuyết “Miền xa kêu gọi”. Từ thực tế đó, chúng ta nhận thấy chỗ mạnh và sung sức của các nhà tiểu thuyết ở đây vẫn là vốn liếng những gì họ tích lũy được trong những năm tháng trực tiếp sống, chiến đấu và viết trên chiến trường chống Mỹ. Và qua từng trang viết của mỗi nhà văn, có thể nhận rõ bước đường sắp tới trong quá trình lao động nghệ thuật của họ. Nhìn lại văn xuôi Bình Trị Thiên những năm gần đây không thể không tìm hiểu một số tác giả quen biết trong bạn đọc. Bởi vì chính qua các tác giả ấy, chúng ta thấy rõ hơn những gì thành công, những gì chưa đạt được của văn xuôi. 2. Giải thưởng văn nghệ, một số tác giả tiêu biểu và đội ngũ người viết. Nhân dịp Đại hội Văn nghệ Bình Trị Thiên lần thứ hai sắp tổ chức, Ủy ban nhân dân Tỉnh đã xét và tặng giải thưởng cho lực lượng văn nghệ có những tác phẩm tốt từ ngày hợp nhất đến nay. Đây là một sự động viên cổ vũ lớn của Đảng và chính quyền đối với lực lượng văn nghệ sĩ,đồng thời là sự đánh giá bước đầu những đóng góp của văn nghệ trong công cuộc xây dựng đất nước. Trong giải thưởng này, văn xuôi đã có ba tác giả được xếp loại A và 6 tác giả được xếp loại B và C. Với tỉ lệ tác giả được giải ấy, văn xuôi đã tạo nên được một số nhà văn quen thuộc với bạn đọc cả nước. Trong phạm vi bài viết này, chúng ta thử điểm qua vài tác giả tiêu biểu: Năm 1979, Hoàng Phủ Ngọc Tường được ban sáng tác Hội nhà văn tặng thưởng cho tập truyện ký “Rất nhiều ánh lửa”. Với tặng thưởng đó, một mốc mới trong bước đường sáng tác của anh được khẳng định. Thủy chung với thể ký, anh đã đi hầu khắp đất nước, đến tận rừng hồi biên giới phía Bắc, về thăm rừng đước ở đất Mũi Cà Mau. Ký của anh có chiều sâu của trí tuệ và thấm đẫm tình cảm da diết của một trái tim giàu lòng yêu nước. Những trang viết về Huế, về Bình Trị Thiên của Hoàng Phủ Ngọc Tường có bản sắc khá rõ. Anh thể nghiệm qua nhiều bài viết của mình và có nhiều ký hay đến với bạn đọc. Sau tập “Rất nhiều ánh lửa”, Hoàng Phủ Ngọc Tường tuy viết có phần hơi ít, nhưng vẫn say sưa, nhiệt tình, sâu sắc trong những trang ký viết về quê hương, về truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc. Với thể ký, anh đã đóng góp cho văn học cả nước một tiếng nói có bản sắc, tiếng nói của nhà văn xứ Huế. Thành công mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đạt được chính là do công phu lao động nghệ thuật nghiêm túc, là kết quả những chuyến đi thực tế rất say mê, nhiệt tình của một nhà văn có tài năng. Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường thành công khi viết về cuộc sống mới, về truyền thống lịch sử qua những trang ký đầy cảm xúc và tâm huyết, thì Nguyễn Khắc Phê bằng tiểu thuyết viết về chiến tranh chống Mỹ đã khẳng định chỗ đứng của một nhà văn có trách nhiệm với cuộc đời, với nhân dân. Tiểu thuyết của anh viết về công nhân trên tuyến đường Hồ Chí Minh đã đặt và giải quyết tốt nhiều vấn đề có tính thời sự nóng hổi, có chiều sâu về xã hội. Khẳng định chỗ đứng của những con người mới chân chính, ca ngợi nhân dân anh hùng, đồng thời mạnh bạo phê phán những kẻ cơ hội, mất phẩm chất đạo đức cách mạng, tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Phê đem đến cho người đọc niềm tin vào cái mới, cái tiến bộ. Tiếng nói của nhà văn là tiếng nói của người trong cuộc. Vì thế, tiểu thuyết “Chỗ đứng người kỹ sư” đã được Tổng công đoàn Việt Nam và Hội nhà văn tặng giải thưởng năm 1980. những năm gần đây, tuy bận nhiều công tác sự vụ của cơ quan, tuy đang tập trung viết tiểu thuyết khác, Nguyễn Khắc Phê đã xông xáo đến “Những nơi tiên tiến và viết về những con người tiên tiến”. Anh có mặt hầu khắp các công trình thủy lợi, các điển hình tiên tiến ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng v.v… và sau những chuyến đi là những bài ký mới được ra đời. Điều đó chứng tỏ anh đang muốn tự vượt lên để nắm bắt những vấn đề lớn mà hiện thực mới đang đặt ra. Tuy chưa có bài ký nào thật hay khiến cho độc giả chú ý nhiều nhưng ký Nguyễn Khắc Phê đã góp phần khiêm tốn phản ánh những nét mới trong cuộc sống của nhân dân Bình Trị Thiên vừa qua. Trưởng thành về viết văn từ chiến trường Thừa Thiên Huế những năm chống Mỹ, Tô Nhuận Vỹ với tiểu thuyết “Dòng sông phẳng lặng” đã phản ánh một dung lượng hiện thực lớn. Anh là tác giả của một số tập truyện ngắn, là nhà văn có tiểu thuyết viết về chiến tranh khá chững chạc. “Dòng sông phẳng lặng” là kết quả lao động miệt mài, có trách nhiệm của một nhà văn có tài năng. Bút lực Tô Nhuận Vỹ còn tỏ ra sung sức. Gần đây, anh đã hoàn thành tiểu thuyết “Ngoại ô” viết về cuộc sống của người dân ngoại ô Huế, sau ngày giải phóng. Nghĩ về anh, bạn đọc nghĩ đến một cây bút văn xuôi thông minh, có giàu vốn sống về thời kỳ chiến tranh đang cố gắng cắm sâu vào hiện thực mới để có những tác phẩm tốt viết về chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh ba tác giả văn xuôi được giải A trên, trong số các cây bút được giải B và C, Mai Văn Tấn, Nguyễn Quang Hà và Trần Thùy Mai chiếm được nhiều cảm tình của người đọc hơn cả. Mai Văn Tấn làm quen với bạn đọc cả nước chủ yếu qua hai tập “truyện cổ Vân Kiều”. Năm 1971, anh có truyện ngắn được giải thưởng Trung ương: “Xe cày ra trận”. Từ đó đến nay, hơn mười năm, vừa làm nhiệm vụ của một cán bộ lãnh đạo Hội Văn nghệ tỉnh, vừa phải chiến thắng bệnh tật hiểm nghèo, anh vừa viết truyện ngắn và bút ký. Ngoài hai tập sách viết cho thiếu nhi: “Giữa rừng Côpi”, “Dấu chân chiến sĩ biên phòng”, Mai Văn Tấn đã có một đầu sách. Tập truyện ký “Đất ấm” là kết quả những năm anh bám sát cuộc sống của nhân dân Quảng Bình trong và sau chiến tranh. Truyện, ký của Mai Văn Tấn đi thẳng vào mũi nhọn của cuộc sống. Ký viết về nông nghiệp của anh có chiều sâu của cây bút có vốn sống phong phú. “Ở một hợp tác xã không tiếng tăm” được nhiều bạn đọc yêu mến, bởi tiếng nói của tác giả sắc sảo, mạnh bạo và có phần lạnh lùng khi nêu và giải quyết vấn đề. Đằng sau những trang văn của Mai Văn Tấn, chúng ta hiểu được ở anh vốn sống của một cây bút luôn trăn trở với cuộc đời có trách nhiệm với người đọc và tin rằng anh sẽ có bước tiến mới. Cùng viết nhiều về nông nghiệp như Mai Văn Tấn, Nguyễn Quang Hà là cây bút xông xáo trong những đề tài về cuộc sống mới. Bên cạnh bản thảo tiểu thuyết hai tập vừa hoàn thành, anh có tập truyện ký: “Mùa xương rồng nở hoa”. Đó là những bài viết, kết quả nhiều chuyến đi thực tế của anh. Cũng phải nói ngay rằng, tập truyện ký này chưa phải là những truyện, ký hay nhất của anh. Viết về nông nghiệp, Nguyễn Quang Hà có sự say mê của người khám phá cái mới, nhanh nhạy trong nắm bắt, phản ánh hiện thực. Viết về nhân dân vùng cát Tam Giang chống hạn, về nông trường tiêu trĩu quả Tân Lâm hay vùng trồng lúa nước Nam Đông, ký của Nguyễn Quang Hà đem đến cho bạn đọc nhiều hiểu biết mới. Ngoài những truyện ngắn, ký viết về nông nghiệp, anh còn có một số truyện ngắn khác. Truyện ngắn của anh viết về đề tài chiến tranh thời kỳ chống Mỹ hay về cuộc sống mới hiện nay đều có chiều sâu và mặt mạnh khi khám phá tâm lý con người với những diễn biến phức tạp, phong phú của nó. Vài năm gần đây, Trần Thùy Mai gây được sự chú ý của bạn đọc. Truyện ngắn của chị nhẹ nhàng, gợi cảm và ít nhiều mang bản sắc xứ Huế - mảnh đất mà tác giả sống quen thuộc. Từ một số truyện ngắn viết cho thiếu nhi ngày đầu giải phóng đến truyện ngắn “Huyền thoại về chim phượng” là cố gắng mới của Trần Thùy Mai. Điều dễ nhận thấy ở chị là những nhân vật nữ được xây dựng khá hấp dẫn. Tinh tế trong việc phân tích diễn biến tâm lý nhân vật, có những trang văn hay khi miêu tả thiên nhiên, con người Huế, biết đặt và giải quyết trọn vẹn, thuyết phục những vấn đề khiêm tốn vừa sức mình là những mặt mạnh của Trần Thùy Mai. Nếu vốn sống tích lũy dày dặn hơn, xông xáo vào những vấn đề lớn của hiện thực mới đang đặt ra thì tin rằng Trần Thùy Mai sẽ đi xa hơn nữa - trong sáng tác văn xuôi những ngày sắp tới. Tất nhiên, điểm qua vài tác giả trên đây để thấy rõ hơn diện mạo của văn xuôi. Nhìn vào lực lượng viết văn, bên số tác giả trưởng thành khá chắc, chúng ta cũng thấy hiện tượng có nhà văn chuyên nghiệp và có tác giả nghiệp dư vốn đã thành công bằng tiểu thuyết hoặc truyện ngắn đầu tay, nhưng với cuộc sống mới họ như có sự chững lại. Nguyên nhân chính của sự chững lại ấy là do khả năng tìm hiểu, khám phá, sáng tạo trước hiện thực mới của họ có hạn chế. Tự bằng lòng với những gì đã đạt được, hoặc chưa lao thẳng vào mũi nhọn của cuộc sống, các tác giả ấy không khỏi bước vào con đường mòn trong sáng tác. Mặt khác, ở ngay cả những tác giả tiêu biểu được giải thưởng, và đội ngũ người viết nói chung vẫn còn thiếu sự nhuần nhuyễn, thiếu sức nắm bắt và huy động đời sống bên trong của nhân vật trong quá trình phát triển phức tạp, phong phú của nó. Mà khả năng đó chỉ có khi nhà văn thật sự am hiểu sâu sắc hiện thực cách mạng và quá trình tâm lý của con người, sự chín muồi của nhiệt tình cách mạng và phẩm chất thẩm mỹ của các tác giả. Vì vậy, trong các tác phẩm không phải không lắm lúc người đọc, nhận ra sự sắp xếp, bố trí, dàn cảnh khéo léo của tác giả. Sự huy động kiến thức đọc được một cách đơn giản, sự né tránh những cảnh ngộ rối rắm, phức tạp đòi giải quyết mà bức tranh xã hội đang đặt ra, sự trình bày hệ thống sự kiện lấn át diễn biến tâm lý, hành động đường đi, nước bước của nhân vật là điểm yếu chung của các tác giả. Khi xây dựng nhân vật, các tác giả còn chưa giành công sức để đi sâu vào số phận của nó. Vì thế phần lớn nhân vật chưa có chỗ đứng vững chắc trong tâm hồn người đọc. Hiện tượng những nhân vật (kể cả nhân vật trong tiểu thuyết) tròn trĩnh, thiếu chiều sâu nội tâm, chưa có đời sống riêng, mang tính ước lệ nhiều hơn là nhân cách sống vận động không ngừng, vẫn thấy xuất hiện nhiều trong các tác phẩm. Từ chỗ xây dựng nhân vật như vậy nên ở các cây bút văn xuôi nhìn chung còn chậm đổi mới cách viết. Các nhà văn chuyên nghiệp sau những thành công bước đầu, vẫn miệt mài trong sáng tác nhưng những dấu hiệu của sự đổi mới chưa rõ, thậm chí có người đã tự lặp lại mình hoặc sút xuống dễ dàng. Đáng tiếc, Bình Trị Thiên là một địa bàn trong đó có những người cầm bút đã sống khá lâu với cuộc đấu tranh đô thị ở Huế và miền Nam nói chung, nhưng chưa có được những trang viết sắc sảo về cuộc chiến đấu ở đô thị. Người đọc đang chờ đợi sự trả lời tích cực của các tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hà Khánh Linh, Trần Thùy Mai, Thái Ngọc San… viết về đề tài đầy sức hấp dẫn này. Một hạn chế cũng cần thấy rõ trong văn xuôi là ít tạo ra bản sắc về một vùng đất. Bình Trị Thiên là một vùng đất giàu bản sắc. Trên những trang viết của một số ít tác giả bước đầu đã mang được bản sắc tuy chưa thật đa dạng. Cũng không phải không có tác giả vốn ở Bình Trị Thiên lại “pha giọng” miền đất khác, kể cả tính cách và ngôn ngữ nhân vật. Lại có tác giả muốn cho tác phẩm có bản sắc lại chỉ chú ý đến ngôn ngữ nhân vật hoặc ngôn ngữ kể chuyện của mình miễn sao nói tiếng địa phương mà chưa chú ý đến việc khám phá để tìm hồn đất, hồn người vùng đất này cho tác phẩm. Vì thế văn xuôi, khi muốn trở thành văn xuôi của một vùng đất, nhà văn phải thật sự hiểu mảnh đất, con người mà mình đang sống để tạo cho trang văn của mình có nét riêng khó lẫn với trang văn ở những vùng đất khác. Chỉ có như thế, văn xuôi mới có chiều sâu hòa nhập với đời sống và mới có chỗ đứng trong đời sống. Từ số lượng tác phẩm với những vấn đề của nó, từ một số tác giả tiêu biểu và đội ngũ bạn viết, văn xuôi Bình Trị Thiên đang đứng trước những vấn đề mới mà cuộc sống đang đòi hỏi phản ánh. 3. Những vấn đề mới cho văn xuôi. Trước hết, vẫn là đội ngũ người viết cần được quan tâm hơn. Có ý kiến cho rằng: Bình Trị Thiên ít người viết văn xuôi. Thực tế không như vậy. Nhiều bạn viết trẻ hăm hở gửi sáng tác đến văn nghệ Bình Trị Thiên. Và một số cây bút đã có bài in trên tập san. Thế nhưng, chỉ sau thành công đầu tay có phần mỏng manh, bột phát ấy, họ lại vắng bóng. Điều này đặt ra cho Hội văn nghệ một nhiệm vụ khá nặng nề và cấp thiết: làm sao bồi dưỡng được đội ngũ viết trẻ, bổ sung cho lực lượng văn xuôi vốn có. Vấn đề quan trọng hơn nữa là phải nâng cao chất lượng văn xuôi. Muốn nâng cao chất lượng tác phẩm thì đòi hỏi các tác giả phải có sự thảo luận, tìm hiểu, những vấn đề mỹ học cơ bản nhất của văn xuôi hiện đại. Có thể đã qua thời kỳ tác giả nhận thức những vấn đề mỹ học chưa chín muồi, lối viết dựa trên sự dò dẫm, góp nhặt một số sách báo đọc được, rồi bằng sự tài hoa, nhanh nhạy và khéo léo của mình để tạo nên tác phẩm. Trước những vấn đề lớn của hiện thực đang đặt ra, nhà văn muốn trở thành cây bút vững vàng, đa dạng và có phong cách, không thể không nghiêm túc trong khảo sát hiện thực. Nhà văn cần xâm nhập hiện thực, suy nghĩ kỹ về con người chứ không phải chỉ thu nhặt những chi tiết vặt vãnh, mới lạ của sự kiện. Chỉ có như thế, nhà văn mới đo được tầm cỡ những xung đột và xử lý tốt các nhân vật, hướng tới các tiêu chuẩn nhân bản của giai cấp công nhân. Với những yêu cầu đặt ra cho văn xuôi sắp tới, lực lượng sáng tác cần đầu tư những tác giả cắm vào những đề tài lớn quan trọng. Đương nhiên, với một vùng đất có bề sâu của lịch sử, nhất là những chiến công lớn trong thời kỳ chống Mỹ vừa qua, các cây bút văn xuôi thường ưu tiên viết về đề tài chiến tranh cách mạng. Thế nhưng, không lẽ với hiện thực xây dựng chủ nghĩa xã hội, với sự đòi hỏi cấp thiết của nhân dân, văn xuôi lại có thể vừa lòng với những gì đã đạt được. Rõ ràng, hiện thực mới đang là mảnh đất màu mỡ chờ văn xuôi khai phá, thâm canh để tạo nên mùa vàng bội thu. Muốn như thế, các tác giả cần có sự “tự vượt” của mình hơn nữa, các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền cần quan tâm chu đáo hơn đời sống của văn nghệ sĩ, để có những tác phẩm có giá trị lớn phản ánh hiện thực cách mạng xã hội chủ nghĩa trên quê hương Bình Trị Thiên. Huế, tháng 3 - 1983 L.X.V. (1/5&6-83) |
TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.
KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?
MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.
INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay
XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.
Linda Lê, nhà văn nữ, mẹ Pháp cha Việt, sinh năm 1963 tại Đà Lạt, hiện đang sống tại Paris, viết văn, viết báo bằng tiếng Pháp. Một số tác phẩm của nhà văn đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như là: Vu khống (Calomnies), Lại chơi với lửa (Autres jeux avec le feu). Chị đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế vào ngày 15.10.2010 vừa rồi. Sau khi trao đổi về bản dịch, chị đã đồng ý cho phép đăng nguyên văn bài nói chuyện này ở Tạp chí Sông Hương theo như gợi ý của dịch giả Lê Đức Quang.
KHÁNH PHƯƠNG (Tiếp theo số 261 tháng 11-2010)
LÊ TIẾN DŨNGKhi nói đến thơ một vùng đất, thường người ta vẫn chú ý nhiều đến những vấn đề như tác phẩm, thể loại, đội ngũ… nghĩa là tất cả những gì tạo nên phong trào thơ của một vùng.
LẠI NGUYÊN ÂN(Trích đăng một phần tiểu luận)
KHẾ IÊMGửi các nhà thơ Đỗ Quyên, Inrasara và Lê Vũ
TRẦN HUYỀN SÂMTrong một nghiệp bút, hình như có tính quyết định bởi những cú sốc. Hoặc là cú sốc ái tình, hoặc là cú sốc chính trị, hoặc là sự thăng hoa của một miền ký ức nào đó ở tuổi hoa niên. Tiểu thuyết gia, chính trị gia Peru: Mario Vargas Llosa - người vừa được vinh danh giải Nobel văn học, dường như đã “chịu” cả ba cú sốc nói trên.
LTS: Thơ Haiku Nhật Bản thế kỷ XVII không dùng lối nói bóng gió, không tìm kiếm những nét tương đồng giữa “thế giới bên trong” của con người và hiện thực “bên ngoài” để tạo ra cầu nối giữa con người với thế giới, con người với con người. Haiku dùng những biểu tượng hàm súc ứ đầy thông tin và cảm giác để khắc họa con người trong nhất thể với thế giới. Đường thi cũng rất ít xuất hiện trường hợp dùng lối nói ẩn dụ, mà bộc lộ trực tiếp ý tưởng và ưa thích liên tưởng mà không cần viện tới cái tương đồng.
LGT: 1. Dịch giả, nhà phê bình Trần Thiện Đạo( sinh 1933) định cư ở Pháp từ thập niên 50. Sống hơn nửa thế kỷ ở Paris, Trần Thiện Đạo đã thâm ngấm sâu sắc ngôn ngữ và văn minh Pháp. Tuy nhiên, cảm thức cội nguồn vẫn luôn tiềm tàng trong tâm thức của một người trí thức sống lưu vong. Miệt mài, đam mê đến khổ hạnh, ông đã tạo lập một vị trí đặc biệt trong dòng đối lưu văn chương Pháp -Việt.
NGUYỄN THANH TÂM1. Thơ vốn dĩ là sản phẩm của đời sống tinh thần, là sự biểu hiện một cách tinh tế những diễn biến nội tâm của chủ thể sáng tạo. Ngôn từ vẫn luôn là chất liệu với nội lực biểu hiện vô song của nó. Các nhà thơ dù ở thời đại nào, trong môi trường văn hóa, lãnh thổ nào cũng không thể thoát ra khỏi sự ràng buộc tự nhiên của cái biểu đạt ấy để hướng tới cái được biểu đạt ẩn sâu sau những “lựa chọn” và “kết hợp” có giá trị mĩ học.
MAI VĂN HOANKỷ niệm 70 năm ngày mất Hàn Mặc Tử (11/11/1940 - 11/11/2010)Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, mất năm 1940. Quê Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Tổ tiên họ Phạm, ông cố Phạm Nhương, ông nội Phạm Bồi, vì liên can quốc sự trốn vào Thừa Thiên đổi ra họ Nguyễn. Cha là Nguyễn Văn Toản, mẹ là Nguyễn Thị Duy.
PHONG LÊHôm nay theo tôi quan niệm là một thời gian khá dài, nếu tính từ khởi động của công cuộc Đổi mới với Đại hội Đảng lần thứ VI - 1986.
THÁI DOÃN HIỂUVì sao Nguyễn Du viết Truyện Kiều? Mục đích viết Kiều để làm gì?... là những câu hỏi bức bối trong suốt thời gian tôi còn làm ông giáo đứng trên bục giảng. Tôi đã viết một chuyên luận dài 200 trang để trả lời câu tự vấn trên. Dưới đây là bản tóm tắt ghi bằng thơ để bạn đọc dễ tiếp thu và ghi nhớ.
L.T.S: Tối 27-3-1984, tại Huế, giáo sư Xi-đô-rốp, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô, hiệu phó học viện Gooc-ki và là nhà lý luận Văn học nổi tiếng của Liên Xô, đã đến tham dự cuộc tọa đàm về các vấn đề văn học với các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ở Bình Trị Thiên. Sau đây là những ý kiến của giáo sư về các vấn đề đặt ra trong cuộc tọa đàm, qua lời phiên dịch của nhà thơ Bằng Việt, do Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi lại.
MAI VĂN HOANTheo thần thoại Hy Lạp, vị thần đầu tiên xuất hiện trên thế gian là thần Ái tình. Thần Ái tình là một đứa bé có cánh với cây cung bên người, ngọn đuốc cầm tay mang tình yêu đến với những trái tim. Tình yêu - nguồn đề tài không bao giờ cạn của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.
LƯƠNG ANNhớ có một bài thơ “nói láo” nào đó, khi kết thúc đã nói đến một điều không thể được là làm cho “mấy nàng công chúa phải say mê”. Bài thơ nói đúng với những chàng trai bất tài. Còn trường hợp có tài thì sự việc sẽ khác. Một câu chuyện tình trong đời của nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh đã chứng minh điều đó.