Vấn đề dân sinh: Một bản chương trình

10:12 20/03/2019

NGUYỄN MẠNH TIẾN   

(Lập trường Phong Hóa về xã hội nông thôn)

Trên Phong Hóa1 số 60 (18/8/1933), mục Từ cao đến thấp, có đăng một biếm họa, bàn về Ba cách xử trí của Ngạc Mai2. Tranh trình bày ba cách xử trí, hay nói khác, ba thái độ, ba lập trường của ba cộng đồng tri thức nổi bật thời bấy giờ đối với một phong tục trong ngày cưới của người Việt, khi rước dâu về, cô dâu phải bước qua cái hỏa lò để ở cửa chính nhà chồng3. Lời thuyết minh ở chân tranh: Phái cũ xử trí: - Khư khư giữ lấy cái hỏa lò. Phái dung hòa hai văn minh Âu, Á (Phái ông Phạm Quỳnh) xử trí: - Muốn giữ được quốc túy Việt Nam và thâu nhập được văn hóa Âu Tây thì nên thay cái hỏa lò than bằng cái hỏa lò điện. Phái mới - Bỏ quách!

Phái mới, được hiểu đó chính là Tự Lực Văn Đoàn mà cơ quan ngôn luận của họ là hai tuần báo Phong Hóa Ngày Nay.

“Bỏ quách!” - hai tiếng ấy đầy quả quyết và dứt khoát!

*

Tiểu luận này thử nắm bắt cái nhìn của Tự Lực Văn Đoàn về xã hội nông thôn trên tuần báo Phong Hóa, tuần báo ra đời 1932 và đóng cửa năm 1936, để sau đó, Ngày Nay sẽ tiếp tục sự nghiệp mà Phong Hóa mở đường. Hoạt động trên Phong Hóa, tuổi trung bình các thành viên trụ cột của Tự Lực Văn Đoàn, lúc bấy giờ, chỉ xấp xỉ trên dưới 30. Một độ tuổi rất trẻ4. Nhóm trí thức trẻ này, hoạt động dưới sự điều phối của thủ lĩnh Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đã gây nên những ảnh hưởng thực sự lớn với xã hội Việt Nam thập niên 1930 - 19405.

Phong Hóa, như đã biết, chia làm hai thời kỳ. Thời kỳ đầu, là tuần báo ra ngày thứ năm, từ số 1 (16/6/1932) đến số 13 (8/9/1932) được phụ trách bởi Nguyễn Xuân Mai (Le Directeur) và Phạm Hữu Ninh (Le Gérant). Báo ra không được bạn đọc đón nhận, sắp đi vào chỗ khai tử. Từ số 14 (22/9/1932) Phong Hóa được mua lại và quản lý bởi Nhất Linh Nguyễn Tường Tam6. Từ đây, Phong Hóa, tuần báo ra ngày thứ sáu7, đã làm một cuộc cách mạng, trở thành tờ báo “bán chạy như tôm tươi” ngay từ những số đầu8, là tờ báo được đón đọc nhất cho đến khi nó phải đóng cửa. Người ta có xu hướng thường phân đôi hai thời kỳ, coi Phong Hóa của Nhất Linh như là một sự lột xác hoàn toàn, một sự đoạn tuyệt với số phận hẩm hiu của Phong Hóa 13 số đầu. Tuy nhiên, cả hai hóa thân của Phong Hóa, dù số phận khác hẳn nhau, nhưng mục đích, theo quan sát của nghiên cứu này, lại có sự thống nhất đó là cải tạo phong hóa nước nhà, mà trọng tâm là cải tổ phong hóa làng xã, chìa khóa mở vào xã hội Việt Nam.

Trong tư duy của những người lãnh đạo Phong Hóa hai thời kỳ, chắc chắn, họ nhận thấy - như là hầu hết mọi cái nhìn thời bấy giờ và sau này - nhận diện xã hội Việt Nam là xã hội làng xã. Vì thế, muốn cải tổ xã hội Việt Nam, thì không thể không cải tổ xã hội nông thôn, từ đó, dẫn đến bất cứ một tổ chức nào muốn biến cải xã hội Việt Nam đều phải có một lập trường đối với xã hội nông thôn, đời người nông dân. So sánh lập trường của Phong Hóa hai thời kỳ, có thể nhận thấy một sự tương đồng cao trong nhiều quan điểm lớn về xã hội nông thôn. Phong Hóa ở cả hai thời kỳ, đều mang chung lập trường cải đổi nông thôn vì nông thôn gắn liền với ý niệm lạc hậu, là nơi thành trì hủ tục làm tổ, vì thế muốn cách mạng nông thôn thì phải sửa đổi, phá bỏ hủ tục, đưa vào xã hội Việt Nam những giá trị phương Tây, gắn liền với văn minh. Phong Hóa bộ cũ, ngay số đầu tiên (số 1, 16/6/1932), Mấy lời kính cáo quốc dân, in trang nhất có đoạn “…bỏ điều giở, vạch điều hay của lễ nghi phong tục để cùng Quốc Dân tấn thủ thi hành, đó là tôn chỉ của tờ Phong Hóa Tuần Báo”. Mà Phong tục là gì, chính là “luân lý bình dân”. Phong Hóa mới, do Nguyễn Tường Tam chủ chương, ngay số đầu tiên, trang nhất, bài đầu tiên của báo, cũng là bài đầu tiên do chính Nguyễn Đông Sơn (một bút danh của Nguyễn Tường Tam - Nhất Linh) chấp bút là “Biết dân quê” (số 14 - 22/9/1932) để có thể cải tạo xã hội dân quê theo hướng văn minh, hiện đại. Có thể nói, những chủ đề của Phong Hóa cũ (lưu ý chỉ là chủ đề), lại được Phong Hóa mới lặp lại.

Tuy nhiên, sự khác biệt căn bản để hai Phong Hóa, dù cùng một chủ đích, khai thác cùng một số chủ đề chìa khóa, nhưng lại có hai số phận khác nhau đó chính là do cái cách thức mà những người chủ trương đã tiến hành. Có thể nói, Phong Hóa cũ của Phạm Hữu Ninh đã thực hành sự cải tổ xã hội theo một phong cách nghiêm túc, kiểu cách mạng của chính kịch. Trái lại, Nguyễn Tường Tam lại cấp cho Phong Hóa mới, một thực hành cải tổ xã hội vui nhộn, bằng sức mạnh của tiếng cười, kiểu cách mạng của hài kịch.

Nguyễn Tường Tam ảnh hưởng trực tiếp của tờ Vịt buộc (Le Canard Enchaỵne) và báo chí trào phúng Pháp, chứng kiến sức công phá của tiếng cười được thâu nhận trong thời gian du học ở Pháp đã giúp ông làm cách mạng báo chí Việt Nam9, mà hiện thân thành công đầu tiên là Phong Hóa. Tiếng cười ấy, lên Phong Hóa, lại còn được nhào trộn với tính hài hước, châm biếm của văn hóa dân gian, như truyện cười hay tranh khắc10, khiến nó trở nên rất quen, gần gũi với tiếp nhận của độc giả người Việt đương thời. Tờ báo từ các bài chính luận nghiêm trang, rất nhiều chữ, vài hình minh họa vừa nghèo nàn, vừa lặp đi lặp lại, đã hóa thân thành tờ báo trào phúng đầu tiên ở Việt Nam với đa dạng chuyên mục, hình ảnh biếm họa sôi nổi, hầu như trang nào cũng có, động đến mọi vấn đề, mọi nơi, mọi giới có máu mặt nhất đương thời. Sự thay đổi phong cách ấy, của hai Phong Hóa, cũ và mới, có thể nói biểu hiện rõ nét nhất ở cùng một con người Trần Khánh Giư - Nhị Linh - Khái Hưng. Với bút hiệu cũng là tên thật Trần Khánh Giư, ông viết nhiệt tình và là cây bút chủ lực cho các bài xã luận nghiêm túc trên Phong Hóa cũ. Các tiểu luận trên Phong Hóa cũ của Trần Khánh Giư11 cho thấy một trí thức có phổ quan tâm rộng nhưng phong cách viết là nghiêm túc, cổ điển của lối văn chính luận đã phổ biến thời bấy giờ, mà “bà già” Nam Phong là mẫu mực. Chỉ từ khi Nhất Linh tiếp quản, Trần Khánh Giư tái xuất với bút danh mới, phổ biến hơn với Nhị Linh khi viết xã luận và Khái Hưng khi viết tiểu thuyết, Trần Khánh Giư ngày cũ mới thực sự lột xác trở thành ngôi sao sáng. Ngôi sao ấy, thi thoảng còn xuất hiện với những tranh biếm họa sắc sảo đúng phong cách Phong Hóa.

Một cảm nhận ban đầu, người ta dễ chấp nhận thái độ của Phong Hóa là sự dứt khoát đoạn tuyệt với các truyền thống cũ, “bỏ quách!”, như ý đồ hiển ngôn của Phong Hóa cũng như các diễn giải về tuần báo và nhóm Tự Lực Văn Đoàn sau này phổ biến trong nước, sau 1986. Nỗ lực Tây hóa xã hội Việt Nam, xã hội về cơ bản là nông thôn, làng xã xen lẫn với các cụm đô thị vẫn còn giữ nhiều ràng buộc với tập tính sinh hoạt và luân lý làng mạc của những người thanh niên viết dưới lí tưởng Tự Lực Văn Đoàn đã thành tuyên ngôn, tôn chỉ, mục đích hành động. Trên Phong Hóa, người đọc bắt gặp thường xuyên điệp khúc, qua các bài xã thuyết, xã luận của các yếu nhân chủ chốt tờ báo như Nhất Linh, Nhị Linh và Tứ Ly về việc cần phá bỏ hủ tục nông thôn, bỏ các giá trị lỗi thời, nhất là Khổng giáo, để: “Âu hóa dân quê - một quan niệm mới” như đúng tên một bài đăng trang nhất, hai kỳ của Nhị Linh (Phong Hóa số 107 & 108, 7/1934). Lần lượt, chúng ta sẽ xem xét lập trường đối với nông thôn của Tự Lực Văn Đoàn thời kỳ Phong Hóa và trên Phong Hóa qua vài đại diện quan trọng của Tự Lực Văn Đoàn như Nhất Linh, Nhị Linh và Tứ Ly. Những người viết gối bài lẫn nhau trong cùng một chuyên mục (như “Vấn đề dân sinh”, đăng rất nhiều số), hay phụ trách riêng một chuyên mục nào đó, và thậm chí, không loại trừ có thể đứng tên nhau, để cùng bàn luận về các vấn đề dân quê. Điều ấy, cho thấy, họ đã có một sự “thống nhất ý chí” khá cao. Những bàn luận về dân quê, hầu hết, đăng trang nhất, và thường là các bài nhiều kỳ. Ngay cái vị trí - trang nhất - tự nó đã cho thấy vấn đề nông thôn được định vị như thế nào đối với mối bận tâm của Phong Hóa.

Yếu nhân số một của Tự Lực Văn Đoàn, thủ lĩnh cũng như người điều hành Phong Hóa - Nhất Linh luôn có một sự quan tâm sâu và hệ thống với vấn đề dân quê. Như đã nói, ngay số đầu tiên của Phong Hóa mới và ngay mục đầu tiên trên trang nhất có bài “Biết dân quê” ký Nguyễn Đông Sơn - một bút danh khác của Nhất Linh (số 14, 22/9/1932). Hiểu biết về đời sống dân quê là nhiệm vụ quan trọng mà người trí thức cần hướng đến. Ông chỉ trích bọn học thức xa rời đời sống sinh hoạt dân quê, nên, đã không thực sự thông hiểu họ. Đó là một trong các nguyên nhân thất bại của các nhà trí thức muốn cách mạng dân quê. Ông kêu gọi giới trí thức phải có sự thông hiểu dân quê thực thụ. Đồng thời, ông cũng chỉ trích bọn hiểu dân quê là tổng lý, nhưng bọn này hiểu là cốt bóc lột dân để thu lợi về mình. Trong đám tổng lý chỉ có rất ít người thực sự vì dân quê mà hành động (Phong Hóa, số 48, 26/5/1933). Cách mạng đời sống dân quê là một công cuộc vất vả, bởi “đổi cả cái quan niệm về cuộc đời của một hạng người thật là khó, nhưng có làm được thế thì mọi việc cải cách trong đám dân quê mới được dễ dàng” (Phong Hóa, số 48, 26/5/1933). Cụ thể, Nhất Linh bàn tiếp: “phá bỏ cuộc đời mê muội huyền bí của họ đi, lấy cái đời hợp lý (vie rationnelle) thay vào” (Phong Hóa, số 49, 2/6/1933). Cái đời hợp lý, của Nhất Linh là rất cụ thể: “Một người thường dân cần cái gì? Cần một túp nhà sạch sẽ, sáng sủa, hợp vệ sinh, cần một ngày hai bữa cơm cho ngon bổ, cần quần áo cho ấm thân, cho lành lặn. Phải cho họ biết những cái đó là những cái cần thứ nhất trong đời họ.” (Phong Hóa, số 49, 2/6/1933). Nhất Linh trong cái nhìn của mình, cho rằng, nền luân lý cũ mà Khổng giáo là đại diện đã đưa người dân quê vào đời sống siêu hình tù hãm, nô lệ thần linh, chạy theo các giá trị hão huyền của danh phận, ngôi thứ và đánh mất con người cá nhân với các nhu cầu tự thân. Đó là nguồn gốc của lạc hậu, của sự khổ sở trong đời người dân quê. Vì thế, ông muốn đưa ra một chương trình thiết thực, cụ thể mà ngày nay ta hiểu là cách mạng sinh hoạt thường ngày. Phong Hóa cũng như Nhất Linh, do vậy, trong chương trình hành động của mình sẽ trực tiếp đi vào các khía cạnh cụ thể của sinh hoạt thường ngày, làm cách mạng: ăn, uống, mặc, ở… Do đó, trên Phong Hóa, mục “Vấn đề dân sinh” hay “Sự sống của dân quê” là mối quan tâm thường xuyên của nhiều cây bút, mà Nhất Linh là chủ đạo, sau đó, Nhị Linh và Tứ Ly tiếp nối. Nhất Linh trong các đề xuất của mình để phục vụ dân sinh có về di dân lên thượng du (Phong Hóa, số 43, 21/4/1933), tương trợ nam - bắc (Phong Hóa, số 44, 28/4/1933); mở hàng người Nam bán cho người Nam, sáng kiến cái nhà vàng (Phong Hóa, số 50, 9/6/1933), cải tạo đường xá (Phong Hóa, số 46, 12/5/1933)…

Tinh thần cách mạng đời sống dân quê, cuộc cách mạng không đi vào tranh luận hay diễn giải các khái niệm mà chú trọng đề xuất phương pháp, cách thức thực hiện và đi vào thực hành nhằm đổi thay đời sống dân quê bằng chính sinh hoạt tại thế của họ được mở ra bởi Nhất Linh, các đồng chí của ông tiếp bút. Người ít thì viết một vài bài, như Thạch Lam (kí Việt Sinh) viết về mở mang kỹ nghệ nhỏ (Phong Hóa, số 47, 19/5/1933), đả phá hủ tục lễ tết (Phong Hóa, số 166, 13/12/1935)... Tứ Ly thường xuyên hơn, và đáng chú ý hơn cả là những bài viết nhằm cải tổ tinh thần luật pháp, tri thức cho người dân quê (Phong Hóa, số 91, 30/3/1934; số 93, 13/4/1934; số 183, 17/4/1936;…). Nhưng Nhị Linh, cùng với Nhất Linh, mới chính là người có nhiều bài hơn cả phục vụ vấn đề dân sinh. Trên Phong Hóa, cặp Nhất - Nhị [Linh] tạo thế nên thế song song của hai chủ lực quan trọng nhất, kéo Phong Hóa mạnh mẽ chiếm hữu, áp đảo làng báo 1932 - 1936. Sở trường viết xã thuyết, xã luận trên Phong Hóa cũ được tiếp nối trên Phong Hóa mới, Nhị Linh Trần Khánh Giư viết đa dạng, nhiều chủ đề, trong đấy, nếu có bài trùng chủ đề với bài của các tác giả khác thì sẽ được Nhị Linh trình bày theo góc nhìn của ông, khác đi và cố gắng tạo cho nó một sự sinh động. Điểm đáng chú ý, các bài viết của Nhị Linh, để có tính thuyết phục cao, thường xuất phát từ thực tế “làng tôi”12 Chiến lược viết này nhằm tạo dựng nên sự khả tín của kiểu trải nghiệm bên trong. Nhị Linh viết đa dạng, ông kêu gọi trừ khử man trá, hà lạm trong dân, bàn cách xây công quĩ hương thôn, cách mạng vệ sinh (Phong Hóa, số 52, 23/6/1933; số 53, 30/6/1933), trị an (Phong Hóa, số 54, 7/7/1933), bài trừ kiện tụng, lễ lạc (Phong Hóa, số 56, 21/7/1933; số 57, 28/7/1933), đả phá tục đốt vàng mã là giả dối (Phong Hóa, số 114, 7/9/1934), bỏ hẳn luân lý Khổng giáo, luân lý Tàu (Phong Hóa số 100; 1/6/1934; số 106, 13/7/1934). Đáng chú ý là bài nhiều kỳ trên các mục Giáo dục trong dân quê của Nhị Linh nhằm cải tổ giáo dục, cải đổi tôn giáo, lễ tang, đổi thói hư danh của người nhà quê (Phong Hóa, số 58, 4/8/1933; số 59, 11/8/1933; số 60, 18/8/1933). Mục Một bản chương trình (Phong Hóa, số 83, 26/1/1934; số 84, 2/2/1934; số 86, 23/2/1934), Nhị Linh lập luận cần phá bỏ lũy tre xanh, thành trì khép kín tự trị làng xã, thay đổi trang phục, vệ sinh nước uống, nhà ở. Cũng Nhị Linh đưa ra tuyên ngôn: Âu hóa dân quê - quan niệm mới, là mục đích trong hành động của tuần báo (Phong Hóa, số 107, 20/7/1934; số 108, 27/7/1934). Liên tiếp 5 số Phong Hóa, Nhị Linh lại đề ra hướng đạo sinh ở chốn thôn quê, để giúp cuộc cải cách thôn quê thành công (Phong Hóa, số 137, 22/2/1935; số 138, 1/3/1935; số 139, 8/3/1935; số 140, 15/4/1935; số 141, 22/4/1935)… Trên đây chỉ là một số dẫn liệu căn bản, để tạm hình dung nên một cái nhìn. Thực tế, các thành viên của Tự Lực Văn Đoàn, nhất là Nhất Linh và Nhị Linh còn viết nhiều hơn thế, đồng thời, rộng sân tham gia nhiều chuyên mục khác nhau về các vấn đề thuộc xã hội nông thôn. Phần tổng thuật sơ lược những bài báo đáng chú ý hơn cả ở trên sẽ được phân tích như là chất liệu chính, là cơ sở để nắm bắt cái nhìn của Tự Lực Văn Đoàn đối với vấn đề nông thôn. Như thế, có cơ sở để nhận thấy, trong tư duy của Phong Hóa, vấn đề nông thôn là một vấn đề thiết yếu bậc nhất (các bài thường đăng trang nhất, và liên tục xuất hiện). Nó dường như, và về cơ bản là thực sự đã được qui giản thành hai bước nhận thức: 1. Nông thôn với hàng loạt những tục lệ ngàn đời là thành trì hủ tục, lạc hậu, làm kìm hãm sự phát triển quốc gia; 2. Do đó, cần cải tạo nông thôn, mà cụ thể, bỏ tục cũ, theo lý mới của văn minh phương Tây. Điều này, giống như một lời kêu gọi của Nhị Linh “cải cách xã hội thì phải mạnh bạo, quả quyết theo âu, phải âu hóa” (Phong Hóa, số 107, 20/7/1934). Lời kêu gọi ấy, như là lời hạt nhân, được lặp đi lặp lại trong nhiều bài báo Phong Hóa. Đỉnh điểm của những cái nhìn về nông thôn như là biểu trưng của hủ lậu, cần đập phá, tháo dỡ, có thể kể đến mấy bài thơ của Tú Mỡ mà tiêu biểu như “Bỏ cái đình” (Phong Hóa số 142, 29/3/1935). Bài thơ, một cách thúc giục kêu gọi dỡ đình, phá đình - biểu tượng quan trọng nhất của tinh thần làng mạc người Việt.

Nhìn tổng thể từ các bài xã thuyết/luận, cái nhìn nông thôn của Tự Lực Văn Đoàn thuộc về cái nhìn phê phán làng xã, vốn là một trong những cái nhìn phổ biến và bao trùm lên toàn bộ thời đại kêu gọi “cải lương hương chính”, lên rất cao vào thời những người thanh niên Tây học Tự Lực Văn Đoàn hoạt động. Cái nhìn phê phán này, nhìn phong hóa xã hội nông thôn như là thành trì hủ tục cần cải tạo, còn kéo dài lâu mãi về sau. Một thái độ như Tú Mỡ cũng không xa lạ gì, đả phá kết án cái đình, sau này, cũng là “tâm sự chung” không chỉ dân Tây học, mà còn cả ký giả nhà văn xuất thân ông đồ như Ngô Tất Tố (viết Tập án cái đình năm 1939). Cái nhìn xã hội mang tính tiến hóa này, có lúc khá cực đoan, xem xã hội nông thôn là lạc hậu, xã hội đô thị theo văn minh Âu hóa là tiến bộ, do đó, cần cải tạo xã hội nông thôn theo đường Âu hóa là một cái nhìn bao trùm lên Phong Hóa. Và bấy lâu, người ta chấp nhận nhận thức ấy như một công thức khá rõ nét và rắn chắc, lấy chính nhóm Tự Lực Văn Đoàn là ví dụ tiêu biểu cho tinh thần Âu hóa triệt để - chú ý từ “triệt để” (!) - từ khóa cho các chiến lược ngôn từ diễn giải các vấn đề theo hướng biểu nghĩa một chiều, cũng có thể hiểu là mang sắc màu của sự cực đoan.

Nhưng thực tế, cái thực tế đầy phức tạp của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX chứa đựng trong nó nhiều tình thế lưỡng lự. Người ta nhận thấy, ngay trong các bài xã thuyết của các thành viên Tự Lực Văn Đoàn hăng hái nhất vẫn bộc lộ những mâu thuẫn nội tại, một sự “bối rối”, ở đâu đó vẫn cứ trôi nổi, vướng víu, tồn tại. Nhị Linh vừa có bài kêu gọi bỏ hẳn luân lý Khổng giáo (Phong Hóa số 100, 1/6/1934), đúng với tôn chỉ thứ 8 “Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa” trong tuyên ngôn của Tự Lực Văn Đoàn (Phong Hóa, số 87, 2/3/1934). Đồng thời, Nhị Linh ở đâu đó, dù không thường xuyên, vẫn sử dụng các kinh nghiệm, điển tích, luân lý Khổng giáo cho những lập luận trong việc phá bỏ hủ tục, mà theo ông, chứa đựng chính nền luân lý này vốn đã bám rễ sâu, chặt ở thôn quê. Trên Phong Hóa số 60 (18/8/1933), khi đưa ra một bản chương trình dự định cho giáo dục dân quê, Nhị Linh vẫn lập luận trong tư cách một người tiếp thu Khổng giáo khá sâu sắc khi dẫn thiên Hương đảng sách Luận ngữ để xây dựng nền giáo dục mới! [Phong Hóa số 80 (5/1/1934)]. Chỗ khác, ông lại dùng tư tưởng Khổng giáo để vận động dân quê phá hủy lũy tre xanh. Trên nền của cuộc vận động Âu hóa của Tự Lực Văn Đoàn, vì thế, khoác tấm áo của sự theo đuổi văn minh phương Tây một cách mạnh mẽ, nhưng những người thanh niên trẻ tuổi cầm trịch Phong Hóa Ngày Nay, từ nhiều ràng buộc, vẫn cho thấy một sự vướng víu không hề nhỏ từ truyền thống. Truyền thống hay hiện đại, thực chất, là không dễ để có thể định nghĩa rõ ràng. Diễn giải về Tự Lực Văn Đoàn, cũng như bối cảnh tri thức, xã hội Việt Nam cận đại, bởi vậy, không dễ để “quy” các vấn đề vốn phức hợp ấy vào chỉ một vài “kết luận sáng rõ” nào đó.

N.M.T  
(TCSH359/01-2019)

.............................................  
1. Nghiên cứu này sử dụng bản PDF hai tạp chí Phong Hóa và Ngày Nay trên trang chủ web Thư  Viện người Việt [nguồn: https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/thuvien-NV.php]. Nhân đây, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến tất cả những người đã có công tiến hành số hóa và thực hiện hảo ý đáng trân trọng đưa lên trên internet hai tạp chí quan trọng này, biến nó thành tài sản chung của tất cả mọi người.

2. Một bút hiệu của họa sĩ Trần Quang Trân, cộng tác viên Phong Hóa.  

3. Theo quan niệm dân gian có ảnh hưởng văn hóa Hán, lửa hỏa lò nhằm tẩy uế những xui xẻo đi theo  cô dâu khi về/gia nhập vào gia đình mới. Phong tục này, không phổ biến ở mọi cộng đồng người Việt, mà nó chỉ rõ nét hơn cả và gắn với/ở người Hoa.

4. 
 

5. Năm 1936, theo Marr, xuất hiện tới 230 tờ báo mới, là đỉnh điểm của một quá trình phát triển báo  chí liên tục từ kể từ thập niên 1920 [David Marr, “A Passion for Modernity: Intellectuals and the Media,” in Postwar Vietnam: Dynamics of a Transforming Society, ed. Hy V. Luong, Rowman and Littlefield, 2003, p.261]. Phong Hóa đến thời điểm 6/1936, thời điểm bị đóng cửa, là tuần báo dẫn đầu về lượng độc giả. Vài điểm đáng chú ý về lượng phát hành tuần báo này, vào tháng 7/1933, ấn bản tuần báo lên đến 10.000. Nguyễn Văn Ký ước tính độc giả Phong Hóa là khoảng 15.850 và của Ngày Nay là khoảng 7.850 [Dutton, G., “Lý Toét in the City: Coming to Terms with the Modern in 1930s Vietnam”, Journal of Vietnamese Studies, Vol. 2, No. 1, 2007, p.80;82).

6. Thời gian đầu tiếp quản Phong Hóa, trên trang nhất, chính giữa đề Ng Tường Tam (Directeur), bên  phải vẫn đề tên Phạm Hữu Ninh (Administrateur Gérant) và bên trái đề Nguyễn Xuân Mai (Fondateur Directeur politique). Về sau này, chỉ còn đề duy nhất Le Gérant Nguyễn Tường Tam ở trang cuối.

7. Phong Hóa từ số 14 đến số 19, vẫn đề tuần báo ra ngày thứ năm, nhưng từ số 20, trang nhất, chạy  dòng chữ in hoa lớn, chính thức đề tuần báo ta ngày thứ sáu.

8. Nguyễn Vỹ, Tuấn chàng trai nước Việt - chứng tích thời đại từ 1900 - 1970 (2 tập), Sài Gòn, 1970,  chương 30.

9. Về nước, Nguyễn Tường Tam xin chính quyền thực dân giấy phép làm tờ Tiếng cười, phỏng theo tờ  Le Rire nhưng không được trả lời chấp nhận. Sau đó, ông mua lại tờ báo Phong Hóa “sắp chết” của Phạm Hữu Ninh, và như Nguyễn Tường Bách kể lại, bao nhiêu dự định làm Tiếng cười, anh Tam dồn hết vào Phong Hóa [Nguyễn Tường Bách, Việt Nam, một thế kỷ qua, USA, 1980 (nguồn: www.vietnamvanhien. org/VietNamMotTheKyQua.pdf); Strašáková, Mgr. Mária, Life and Writings of Nguyễn Tường Tam - Život a dílo Nguyễn Tường Tama, Ph.D. diss., Univerzita Karlova v Praze., 2011, p.2). Về xác nhận báo chí trào phúng Pháp có ảnh hưởng đến Nguyễn Tường Tam, xem Dutton (tlđd, 2007: 85) và Nguyen, Martina T. [The Self-Reliant Literary Group (Tự Lực Văn Đoàn): Colonial Modernism in Vietnam, 1932-1941, Ph.D. diss., University of California, Berkeley, 2012, viii]. Ảnh hưởng của báo trào phúng Pháp, không chỉ với Phong Hóa, Ngày Nay mà còn ở nhiều báo khác, nhiều nhà văn khác như hình ảnh biếm họa các ông Nghị, rồi nhân vật Nghị Hách trong Giông Tố, và nhất là tuần báo Vịt đực làm nhớ đến tờ Le Canard Enchaỵne [Nguyễn Văn Ký, La société vietnamienne face à la modernité. Le tonkin de la fin du XIXe siècleà la seconde guerre mondiale, Thèse de doctorat d’histoire, 1992].

10. Cội nguồn tiếng cười châm biếm trên Phong Hóa, Ngày Nay gắn với căn rễ tiếng cười dân gian,  xem thêm phân tích của Martina T. Nguyen (tlđd, 2012), và đúng như phân tích của Martina, tiếng cười trên Phong Hóa là sự hòa trộn cả hai, truyền thống dân gian và ảnh hưởng tiếng cười trên báo chí trào phúng phương Tây.

11. Phong Hóa cũ, Trần Khánh Giư là bút chủ lực, một số thường viết hai đến 3 bài lớn, và bài  thường nằm trang nhất. Ví dụ, chỉ ba số đầu tiên: “Tân học Cựu học chỉ là hai tiếng”, (Phong Hóa, số 1, 16/6/1932); hai bài “Nam vô tửu như kỳ vô phong”, “Ý nghĩa bồi thường trong sự hình phạt ở Á Đông (Phong Hóa, số 2, 23/6/1932); “Một câu hỏi” (Phong Hóa, số 3, 30/6/1932). Trước Phong Hóa, Trần Khánh Giư cũng đã cộng tác viết báo, nhưng thời kỳ này rất khó kiểm kê, nên chúng ta không biết rõ phong cách viết của ông như thế nào. Nhưng có thể, ta dự đoán được phong cách viết ấy là không khác bao nhiêu thời ông viết cho Phong Hóa cũ. Chỉ từ Phong Hóa của Nhất Linh, Nhị Linh mới định hình phong cách và thực sự thành công.

12. Mặc dù quê quán ở Cổ Am (Hải Phòng) một làng khoa bảng khét tiếng đất Bắc, lại là con gia đình  quan lại, nhưng Nhị Linh Trần Khánh Giư thường sử dụng nhân dạng người làng trong dẫn giải nhiều vấn đề liên quan đến cách mạng đời sống làng xã. Giư giống như nhiều thành viên khác của Tự Lực Văn Đoàn, như anh em Nguyễn Tường cũng là gia đình quan lại, bố mất sớm, mẹ buôn bán ở phố huyện Cẩm Giàng, nhưng không vì thế mà họ xa rời cuộc sống lam lũ, trái lại, chính họ có một tuổi thơ đầy lam lũ, sống với người nghèo khó ở phố chợ. Thêm nữa, đô thị Việt Nam cận đại, dẫu sao cũng chỉ là một lớp sơn phủ khá mỏng manh trước nguồn gốc phố chợ trương nở lên của xã hội nông thôn, đậm tính làng mạc. Em trai của Giư - Trần Tiêu với tiểu thuyết nổi tiếng Con trâu (bắt đầu đăng trên Ngày Nay từ số 140, 10/12/1938) và nhiều truyện liên quan đến làng mạc (với chung bối cảnh một ngôi làng châu thổ Bắc Bộ, làng Cầm) nằm trong cái nhìn phê phán làng xã, nhưng đồng thời cho thấy một sự hiểu biết thâm sâu về đời sống làng mạc. Đây là một quyển tiểu thuyết dân tộc chí rất đáng chú ý. Tiểu thuyết này, miêu tả những tập tục người dân quê, đặc biệt, có những tập tục rất hiếm thấy như tục thờ thần mục đồng của trẻ chăn trâu. Chính từ tập tục này được nói đến bởi Trần Tiêu, cho chúng ta biết vì sao Đinh Tiên Hoàng khi tấm bé cầm đầu đám trẻ mục đồng thì đã để lộ ra tư chất một thủ lĩnh lớn về sau. Như thế, khó có thể qui kết các thành viên nhóm này không có hiểu biết đời người dân quê hay dân nghèo. Họ có thể xuất thân ở tầng lớp trên (tư sản hay quan lại - một sự qui định thân phận, xét đến cùng khá mong manh trong xã hội Việt Nam), nhưng điều ấy không có nghĩa họ không hiểu sâu đời sống nông dân hay dân nghèo thành thị. Trái lại, từ những gì họ để lại qua trang viết của nhóm, cho thấy, họ mới thực là những người có một sự hiểu biết đáng kể, đáng nể về những chủ đề này, mà lập luận, nhiều khi dựa trên sự “trải nghiệm bên trong”.  







 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...