Văn chương và siêu-ngôn ngữ

15:27 22/08/2011
ROLAND BARTHES Lôgic học dạy chúng ta biết cách phân biệt thích đáng ngôn ngữ-đối tượng với siêu-ngôn ngữ. Ngôn ngữ-đối tượng chính là chất liệu phục tùng sự nghiên cứu lôgic; còn siêu-ngôn ngữ là ngôn ngữ, không tránh khỏi có tính cách nhân tạo, trong đó ta tiến hành sự nghiên cứu này.

Triết gia Roland Barthes - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Vì thế - và đây là vai trò của sự phản tư lôgic - tôi có thể diễn tả trong một ngôn ngữ biểu trưng (siêu-ngôn ngữ) các mối quan hệ, cấu trúc của một ngôn ngữ thực tồn (ngôn ngữ-đối tượng).

Trong nhiều thế kỷ qua, các nhà văn của chúng ta không mường tượng rằng ta có thể xem văn chương (bản thân chữ này mới xuất hiện gần đây) như là một ngôn ngữ, và, như mọi ngôn ngữ khác, nó phục tùng sự phân biệt lôgic: văn chương đã không bao giờ phản tư về chính mình (đôi khi nó phản tư về các hình tượng chứ không bao giờ phản tư về sự tồn tại của mình), nó đã không bao giờ tách mình ra thành đối tượng xem xét và đối tượng được xem xét; nói ngắn gọn, nó cất tiếng nói nhưng không nói về mình. Và rồi, có lẽ khi cái lương tâm [bonne conscience] của giới tư sản lần đầu tiên bị xáo động, văn chương bắt đầu tự nhận thấy mình trên hai mặt: vừa là đối tượng và là cái nhìn về đối tượng ấy, vừa là lời nói vừa là lời nói về chính lời nói, vừa là văn chương-đối tượng vừa là siêu-văn chương. Về đại thể, ở đây có mấy giai đoạn phát triển: trước hết, [là giai đoạn] ý thức thủ công về sự hư cấu văn chương, được đẩy đến mức đắn đo khổ sở, đến đau khổ vì sự bất khả [impossible] (Flaubert); tiếp đó, ý chí anh hùng muốn trộn lẫn văn chương và sự suy tưởng về văn chương vào trong cùng một thực thể viết (Mallarmé); tiếp nữa, giai đoạn hy vọng đạt tới chỗ tránh được sự lặp thừa văn chương bằng cách không ngừng trì hoãn nền văn chương, có thể nói như vậy, bằng cách tuyên bố dài dòng rằng ta sẽ viết, và biến điều tuyên bố ấy thành bản thân văn chương (Proust); rồi sau đó, giai đoạn thẩm tra sự chân tín của văn chương bằng cách nhân bội đến vô hạn, một cách có cân nhắc và hệ thống, các nghĩa của từ-đối tượng [mot-objet] mà không bao giờ dừng lại ở cái được biểu đạt đơn nghĩa [univoque] (chủ nghĩa siêu thực); cuối cùng, theo hướng ngược lại, bằng cách giảm số lượng các nghĩa này đến mức hy vọng có được một tồn tại-ở đó [être-là] của ngôn ngữ văn chương, một sự trung tính [blancheur] (chứ không phải sự ngây thơ) của hoạt động viết: ở đây tôi đang nghĩ đến công trình của Robbe-Grillet.

Tất cả những nỗ lực này ngày nào đó có thể cho phép chúng ta xác định thế kỷ của mình (tôi muốn nói là từ một trăm năm qua) là thế kỷ của câu hỏi: Văn chương là gì? (Sartre đã trả lời câu hỏi ấy từ thế đứng bên ngoài, thế đứng ấy mang lại cho ông một lập trường văn chương hàm hồ). Và rõ ràng, vì sự tra hỏi ấy được hướng dẫn không phải từ bên ngoài mà trong bản thân văn chương, hay chính xác đến từng chân tơ kẽ tóc hơn nữa, trong vùng bất đối xứng ấy ở đó văn chương làm ra vẻ tự phá hủy mình với tư cách là ngôn ngữ-đối tượng mà không tự phá hủy mình với tư cách là siêu-ngôn ngữ, và ở đó sự tìm kiếm của cái siêu-ngôn ngữ rốt cuộc được xác định là một ngôn ngữ-đối tượng mới, kết quả là nền văn chương của chúng ta từ một trăm năm qua là một trò chơi nguy hiểm với cái chết của nó, tức là một cách thức thể nghiệm cái chết ấy: nó giống như nhân vật nữ của Racine là người đã chết ở chỗ biết được mình là ai nhưng lại sống qua việc đi tìm chính mình (nhân vật Eriphile trong Iphiginiè). Nhưng tình cảnh này lại xác định một vị thế thực sự bi kịch: xã hội của chúng ta, giờ đây, đã bị đẩy vào một ngõ cụt lịch sử, chỉ cho phép nền văn chương [đặt ra] câu hỏi kiểu Oedipe tuyệt hảo: tôi là ai? Cùng một lúc, nó cấm chỉ ta đặt câu hỏi biện chứng: làm gì? Chân lý của nền văn chương của chúng ta không thuộc về thế giới của việc làm [ordre de faire], nhưng cũng không còn thuộc về thế giới của tự nhiên [ordre de la nature] nữa: nó là một chiếc mặt nạ tự chỉ về mình.

1959, Phantomas
ĐINH HỒNG PHÚC
dịch
(270/08-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHKhông Lộ là một vị thiền sư thời Lý, ông họ Dương, quê ở Hải Thanh, chùa Nghiêm Quang - nay là chùa Keo, thuộc xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; dòng dõi nhiều đời làm nghề chài lưới, sau bỏ nghiệp sông nước, xuất gia tu Phật, thường trì tụng Đà-la-ni.

  • THÁI DOÃN HIỂUNguyễn Khắc Thạch làm thơ như đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật, máu toé vãi ra. Anh lấy dự cảm của mình làm thuốc băng bó. Vết thương thành sẹo. Thạch gọi đấy là thơ! “Thơ là sẹo của sự thật”.

  • TÂM VĂNNgười xưa có câu: “Tòng thiện bất túc dĩ vi chính” (Chỉ theo điều thiện thì không đủ để làm chính trị). Câu nói đó xem ra rất đúng với Tào Tháo.

  • LƯU KHÁNH THƠ1. Nam Trân trong dòng thơ tả chân của phong trào thơ mớiHoài Thanh đã dùng khái niệm tả chân để định danh một nhóm các tác giả Thơ mới tương đối gần nhau về bút pháp.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN(Trao đổi về tiểu luận Văn học như là tư duy về cái khả nhiên của Trần Đình Sử, Văn Nghệ số 24 ngày16/6/2007)

  • VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.

  • NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMuốn tiếp cận với văn hoá văn học, trước hết phải xác định cơ bản đúng đắn thế nào là văn hoá và thế nào là văn học.

  • HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...

  • PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.

  • ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời                                 Nguyễn Xuân Sanh

  • VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.

  • HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

  • THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.

  • NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.

  • TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).