THÁI PHAN VÀNG ANH
Cùng với sự dịch chuyển liên tục biên giới/ lằn ranh phân định giữa các quốc gia, dân tộc, những vấn đề toàn cầu hóa cũng ngày càng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của nhân loại, đến từng số phận cá nhân.
Sách của Linda Lê - Ảnh: tư liệu
Câu hỏi “Đâu là nơi chúng ta có thể cảm nhận là nhà của chúng ta đây? (Nietzsche)” không chỉ mang ý nghĩa phi lí hiện sinh mà còn buộc con người phải suy nghĩ về tính không xác định của những giới hạn địa lý gắn với các khái niệm quê hương, tổ quốc. Toàn cầu hóa khiến ý thức về chủ nghĩa dân tộc thay đổi, khiến văn học phải vượt qua những ranh giới cả hữu hình lẫn vô hình để chạm đến những vấn đề phổ quát hơn, nhân văn hơn, gắn với những cuộc di dân, những dịch chuyển về quan niệm, tư tưởng trong một kỷ nguyên “không biên giới”. Trong bối cảnh ấy, các nhà văn, nhất là những nhà văn mang căn cước quốc tế, dường như có những điều kiện thuận lợi hơn để nhận diện quá trình “nỗ lực đặt tên cho hiện tại” (Michael Denning) của thế giới, từ đó, lý giải được/ mất của toàn cầu hóa từ những trạng huống hiện sinh của con người.
Viết văn không bằng tiếng mẹ đẻ - mà bằng một ngôn ngữ “mạnh”, tiếng Pháp - riêng điều này đã cho thấy Linda Lê không lựa chọn trở thành nhà văn của chỉ một dân tộc, một quốc gia. Tuy vậy, không thể đoạn tuyệt với cái tôi đời thực vốn có một quốc tịch, một quê hương, rốt cuộc Linda Lê vẫn thuộc về một nơi chốn, dẫu đó là nơi “không thể xác định”, bấp bênh và không ngừng chuyển dịch; dẫu tự tác giả luôn cảm thấy không thật sự gắn kết với một nơi nào. Không thuộc về nơi này cũng chẳng thuộc về nơi kia, hay đồng thời vừa ở nơi này, lại vừa ở nơi kia, phải chăng đây là cảm giác chung của những “nhà văn toàn cầu”, những nhà văn ly hương, từ đời thường cho đến trang viết, mà Linda Lê là một trong số ấy. Như nhiều tác phẩm của các nhà văn không biên giới, tiểu thuyết của Linda Lê là những bản mô tả chi tiết, sống động về các vấn đề toàn cầu hóa, với tiêu điểm là những thân phận lưu đày.
1. Viết như một công dân toàn cầu
Toàn cầu hóa khiến thế giới trở thành ngôi nhà chung của nhân loại. Việc thay đổi nơi cư trú, thay đổi cả quốc tịch không còn là chuyện quá khó. Kể cả khi không dịch chuyển, những quy tắc ứng xử, những chuẩn mực văn hóa chung của thế giới cũng chạm đến từng người, làm loãng đi căn cốt dân tộc tính, thay đổi những cái nhìn vốn không vượt ra khỏi biên giới của dân tộc, quốc gia. Trong bối cảnh ấy, viết trong tâm thế của một công dân toàn cầu là biểu hiện nhập cuộc của nhiều nhà văn. Tâm thế này đặc biệt rõ hơn với các nhà văn ly hương, vốn có nhiều trải nghiệm về những khác biệt văn hóa xung quanh các lằn ranh về địa lý và tâm lý.
Cùng viết với ý thức là một công dân toàn cầu, song sự lựa chọn của các nhà văn ly hương không phải lúc nào cũng giống nhau. Cao Hành Kiện chỉ viết về căn tính và tâm thức văn hóa Trung Quốc gắn với các câu chuyện truyền thuyết, lịch sử của một thời đã qua, trong khi Murakami ưu tiên hơn cho một Nhật Bản hiện đại với những giá trị phổ quát thay vì giá trị truyền thống. Từ Mỹ và qua các trang văn, Khaled Hosseini lựa chọn trở về quê nhà Afghanistan, trong khi Đới Tư Kiệt rời bỏ đất nước và chỉ thành danh ở bên ngoài Trung Quốc, với Paris là quê hương mới. Thuận lục lọi ký ức, ngoái nhìn Việt Nam thời bao cấp cùng những bi kịch của người Việt xa xứ, từ nước Pháp; khác hẳn Linda Lê, cũng mang cùng điểm nhìn không gian ấy, song quan tâm nhiều hơn đến những thân phận thiếu quê hương. Sự lựa chọn ngôn ngữ văn học của các nhà văn quốc tế ấy cũng không hoàn toàn giống nhau, liên quan đến mức độ hội nhập với nơi ở mới và sự gần gũi hay xa rời gốc gác. Thuận, Murakami, Cao Hành Kiện…, trung thành, ôm ghì lấy ngôn ngữ mẹ đẻ, viết cho độc giả quê nhà từ bên ngoài biên giới. Ngược lại, Khaled Hosseini, Sơn Táp hay Linda Lê viết văn bằng ngôn ngữ của nước sở tại, khẳng định sự nghiệp văn học của mình với thế giới. Song, ngay cả khi cùng không lựa chọn tiếng mẹ đẻ, chủ ý của các nhà văn cũng rất khác nhau khi mượn văn chương để đối diện và truy tìm căn tính. Hosseini dùng ngôn ngữ vay mượn để đưa dân tộc đến gần hơn với thế giới, xóa bỏ biên giới giữa các quốc gia vốn trùng trùng khác biệt bởi văn hóa Đông - Tây. Sơn Táp chọn tiếng Pháp cho cộng đồng độc giả mới dù tác phẩm của chị vẫn lấy đề tài từ lịch sử, văn hóa quê nhà, với hình tượng trung tâm là các nhân vật nữ mang đậm dáng vẻ hình hài và tâm hồn Trung Quốc. Linda Lê không dùng ngôn ngữ mẹ đẻ để đối diện với cái nằm ngoài mọi biên giới, để từ “cái khác” bàn về những vấn đề mang tính nước đôi và rồi chạm đến những giá trị phổ quát. Với lựa chọn ấy, Linda Lê dường như là nhà văn ly hương đủ “khách quan” để không nhìn các vấn đề của nhân loại thời toàn cầu hóa từ những quán tính văn hóa của dân tộc, quốc gia. Chỉ với Linda Lê, các lằn ranh mới thật sự bị mờ hóa, không ngừng dịch chuyển, nhòe đi; để cái bên này và bên kia trở nên khó phân tách, như đúng bản chất của khái niệm toàn cầu hóa.
Là “một khách trú, một đứa con rơi, bơ vơ trên tất cả xứ sở trên thế gian này ngoài huyền thoại của văn chương”1, giống như nhiều nhà văn ly hương, Linda Lê chọn viết để được cứu rỗi. Đây là một sự lựa chọn đầy dũng cảm, bởi, như chị chia sẻ: “Viết trong ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ của mình, chẳng khác gì làm tình với một thây ma”. Xem mình là một công dân của ngôn ngữ Pháp, thay vì là một công dân “Pháp ngữ”, sáng tạo, trong trường hợp của Linda Lê, trở thành một hình thức tự lưu đày. Và từ sự lưu đày đó, những trói buộc của con người trong một thời đại tưởng như không còn bị giới hạn bởi không gian địa lý, có điều kiện được hiển lộ, như chính sự bất toàn của toàn cầu hóa vẫn không ngừng đổ bóng, bao phủ loài người. Ám ảnh nhận diện những thân phận tự lưu đày thông qua hành vi viết trở thành một mạch ngầm siêu văn bản xuyên suốt các tác phẩm của Linda Lê.
Từ Vu khống, Tiếng nói, Thư chết đến Sóng ngầm, Vượt sóng (những tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt), có thể thấy, hình tượng tác giả và kiểu nhân vật nhà văn luôn trở đi trở lại, làm nên tính siêu hư cấu rất đặc biệt của tiểu thuyết Linda Lê. Mối quan hệ giữa hư cấu và thực tại trong tác phẩm vì vậy khá phức tạp, vừa song song tồn tại, vừa lẫn vào nhau, vừa là biểu hiện của thế giới quan tác giả, vừa là kết quả của lối viết hiện đại khi văn học được xem là một trò chơi ngôn ngữ. Motip nhà văn có gốc gác từ một nước nhỏ (vừa chối bỏ, vừa bị ám ảnh bởi cội rễ), nhờ hành vi viết mà tìm thấy bản ngã, xác lập căn tính, xuất hiện với tần số cao trong các tác phẩm. Đó là một cô gái “dân Chà Chệt viết văn bằng tiếng Pháp” như “một cách để thoát khỏi gia đình, để bảo vệ sự cô đơn, sự toàn vẹn tâm thần” (Vu khống). Đó còn là một nhà văn có “ông nội là bần cố nông gốc Việt Nam và gần như mù chữ khi đặt chân đến Pháp”, xem viết như một nỗ lực chống chọi để không bị tiêu tan, một hành vi chống trả với các trật tự đã được thiết lập - viết để cắt nghĩa cho sự tồn tại của chính mình (Vượt sóng)... Được kể từ cái nhìn giàu trải nghiệm của người trong cuộc (các nhân vật nhà văn mang bóng dáng của chính tác giả), các câu chuyện về người nhập cư, sự kỳ thị, hay sự kháng cự và hội nhập văn hóa… đã tạo nên một “căn tính nhập cư đương đại” trong tiểu thuyết của Linda Lê. Độ nhòe giữa thực tại văn bản và thực tại đời sống, cũng khiến tính lập lờ nước đôi trở thành “căn tính tác giả” của nhà văn người Pháp gốc Việt này. Nói cách khác, cảm thức ly hương và tâm thế viết như một nhà văn không biên giới đã giúp Linda Lê chạm đến nhiều vấn đề của toàn cầu hóa, thông qua dòng “văn học chuyển vị”2 của riêng chị.
2. Chấn thương và ly hương
Trước thế kỷ XX, những cuộc di chuyển xuyên lục địa của thương nhân, của nhà truyền đạo, của giới tướng lĩnh quân đội và binh lính… vẫn diễn ra và góp phần làm lan tỏa văn hóa. Tuy vậy, chỉ đến thế kỷ XX, ý thức về một thế giới không phải là sự cộng gộp của các vùng văn hóa mới thật sự trỗi dậy, cùng với những cuộc di dân trên diện rộng, bởi chiến tranh, bởi những thỏa thuận chính trị đã làm mờ nhòa biên giới quốc gia, châu lục, thay đổi cả bản đồ thế giới. Những cuộc chia tách, sáp nhập không chỉ liên tục được diễn ra ở phương diện địa lý mà còn ở cả chính trị, tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ…, một mặt làm tan rã các hệ thống thuộc địa, thay đổi các biên giới hữu hình; mặt khác lại tạo nên những khối, nhóm vốn được kết nối với nhau bởi những đường biên vô hình, không cố định. Toàn cầu hóa gắn liền với sự hòa trộn, lai ghép và xê dịch, xóa bỏ các rào cản hữu hình, vô hình ấy.
Biểu hiện rõ nhất của những lai ghép văn hóa, xóa nhòa đường biên/giới tuyến thời toàn cầu hóa là vấn đề nhập cư. Những làn sóng di dân, những người lìa xa quê hương đến nơi ở mới đã góp phần tạo ra những xáo trộn văn hóa. Họ vừa làm nên sự đa dạng văn hóa, vừa day nhấn về sự khác biệt vốn là nguyên nhân của việc mất bản sắc. Bằng cái nhìn của người trong cuộc, Linda Lê đã nhận diện số phận của những người ly hương, chỉ ra những vết thương của thế giới thời toàn cầu hóa, từ trong tính ưu việt của xu hướng hội nhập.
Việc không thật sự thuộc về nơi nào bởi vừa đứt rễ với quê cũ, vừa không thể bám rễ với nơi ở mới là cội nguồn của những chấn thương, không chỉ là những sang chấn ly hương của từng cá nhân, mà còn bao gồm những mặc cảm của thân phận nhập cư, trong mối quan hệ với người bản xứ. Chọn miêu tả cuộc sống của những công dân Pháp mà dấu ấn quê hương vẫn không thôi in dấu vào họ, Linda Lê đã trưng ra một góc tối của thế giới thời toàn cầu hóa, cùng những ảo tưởng về một ngôi nhà chung của nhân loại.
“Tôi là kẻ lạ nơi này - Tôi là kẻ lạ mọi nơi - Tất tôi sẽ trở về, thế nhưng - Tôi là kẻ lạ nơi ấy”. Mượn lời một ca khúc để nói về tâm trạng của nhân vật Tôi trong tiểu thuyết Vu khống, một cô gái trốn chạy gia đình, quê hương để tìm gốc gác ruột rà từ hai người bố (người bố Việt Nam đã nuôi dưỡng cô và người bố Pháp, người tình của mẹ mà cô chưa bao giờ thấy mặt) và để tìm kiếm chính mình, Linda Lê đã đồng thời vẽ nên chân dung chung của bản thân, của tất cả những thân phận ly hương, trong và ngoài tác phẩm. Tiểu thuyết của Linda Lê vừa là sự tự soi ngắm của các thân phận nhập cư “không tìm được chỗ ẩn náu ở bất cứ nơi nào”, vừa lột trần cái nhìn “bề trên” của dân bản xứ về những người tị nạn, những kẻ không đâu dung nạp. Văn chương Linda Lê tràn ngập số phận bi thương của những người lìa khỏi gia đình, quê hương và sống mòn ở một nơi chưa bao giờ xem họ là thành viên thực sự. Đó là một chàng trai, vì tình yêu loạn luân mà bị cưỡng bách lưu đày xa xứ, bị buộc trở thành người điên, để rồi không thể chịu nổi âm thanh của những kẻ tâm trí lành mạnh, bởi “dù bằng tiếng Pháp hay tiếng dân Chà Chệt, tiếng léo xéo cũng chỉ che giấu sự hão huyền của kiếp sống thừa” (Vu khống). Đó còn là người lính thợ Việt Nam, Diet Trần, tủi nhục vì thân phận ly hương cho đến lúc chết, và vẫn tiếp tục di truyền mặc cảm nhập cư cho con trai, Martin Trần, qua cái họ “nước ngoài” trên đất Pháp (Vượt sóng). Sự tội nghiệp của những số phận nhập cư ấy còn là ở chỗ họ quay lưng với đồng hương như một phản ứng ngược để tự vệ, chống trả. Cô gái trong Vu khống đã tức tối, căm ghét việc bị những người đồng hương gợi chuyện, “lấy cớ tình cờ cùng ở nơi xứ lạ quê người”. Martin Trần trong Vượt sóng thì xấu hổ vì thân phận con lai. Đáng chú ý là sự xung đột, kì thị và mặc cảm “bên lề” này còn diễn ra giữa cư dân đô thị và tỉnh lẻ ngay trong cùng một xứ sở. Trong tiểu thuyết Linda Lê, bị kì thị, tự kì thị và cả kì thị người khác đều là biểu hiện của những chấn thương tâm lí không thể chữa lành ở những thân phận ly hương, ngay cả khi họ ý thức rõ về một thế giới không lằn ranh trong thời toàn cầu hóa.
3. Bình đẳng và chung sống
Toàn cầu hóa giúp người ta nhận ra giá trị của sự đa dạng văn hóa. Việc nhiều dân tộc trong một quốc gia, hay việc nhiều quốc gia trong một khu vực cùng chia sẻ những giá trị chung, bất kể những khác biệt từ bản sắc chính là “sự cực đại đa dạng trong cực tiểu không gian”3, một biểu hiện đặc thù của tính đa văn hóa và liên văn hóa. Từ Pháp, và chọn Pháp như là trung tâm của sự cộng gộp, lai ghép văn hóa, Linda Lê không chỉ đề cập đến những sang chấn ly hương mà còn nhấn mạnh đến sự bình đẳng của những kẻ khác/cái khác, khi mà đối thoại và hội nhập văn hóa là một xu thế tất yếu của nhân loại.
Cho dẫu phải “sống bằng những chối bỏ” trong những tháng ngày tha hương trên đất Pháp, nhân vật “Tôi” trong Vu khống vẫn “kiêu hãnh là dân Chà Chệt viết văn bằng một ngôn ngữ không phải của mình”, thậm chí “lại muốn thêm được hồ nghi con hoang, được bán tin bán nghi con lai”. Bởi cô từng nhận được lời khuyên: “Bất cứ nơi nào em hãy cứ vào như chó đái chậu cảnh. Cứ một mình mình. Cứ là dân Chà Chệt. Chăm bón bờ rìa. Cày xới biên cương. Gìn giữ mãi trong em cái bất ưng, cái lạ lẫm, cái không khoan nhượng”. Người cậu bị biến thành người điên giữa đám người điên nói một thứ tiếng xa lạ của cô, để không bị buộc phải loạn óc, bị lụi tàn, cũng đã phải tự học tiếng Pháp, trầm mình trong mớ văn hóa hỗn độn từ sách vở, chọn sống cùng với người chết, nâng niu mối tình loạn luân của mình để tự cứu vãn lí trí… Có thể nói, thách thức để được là chính mình, dẫu chịu thân phận bên lề, hay chống chọi để sống với sự phân biệt giữa người bình thường và người điên (“làm sao không mang vẻ trì độn cho được với cái sọ trọc lóc, chút ít tóc lởm chởm” mà người ta tạo cho họ), cặp đôi cậu/ cháu người Chà Chệt phải chịu cảnh lưu đày xa xứ trong tiểu thuyết Vu khống, trở thành biểu tượng của sự kháng cự và vượt qua kì thị trong quá trình cùng chung sống và đòi hỏi bình đẳng của con người.
Không lựa chọn chỉ ra những khác biệt văn hóa từ những miêu tả đối sánh, cái khác/ kẻ khác trong tiểu thuyết của Linda Lê được nhấn mạnh từ sự kì thị và vượt qua kì thị của các cá nhân trong quá trình va chạm, chung sống. Đó là sự khác biệt đến mức phủ định nhau như mẹ con Lou, bởi Lou chọn lấy Văn, “khỉ của thế giới thứ ba” và sinh ra một đứa con không thuần chủng, chống lại các quan niệm định kiến và “hoang tưởng về ưu thế của người phương Tây” của mẹ (Sóng ngầm). Đó còn là những khác biệt bởi sự lỏng lẻo, thiếu gắn kết, ngay trong chính cộng đồng người nhập cư, xuất phát từ mức độ hội nhập và “sức ỳ” trong việc gìn giữ hay rũ bỏ căn tính gốc (Vu khống, Thư chết). Tuy vậy, cái khác chính là gốc rễ của sự đa dạng, là căn nguyên của xu hướng đối thoại, hội nhập văn hóa. Bằng việc nhận diện quá trình chung sống và tìm kiếm địa vị bình đẳng của người nhập cư ở Pháp, bao gồm cả những trải nghiệm của bản thân, Linda Lê đã chứng tỏ sự đa dạng văn hóa là một giá trị lớn của thế giới, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Có thể xem Văn, một biên tập viên giỏi nghề của một tòa soạn có tiếng ở Paris, rời quê hương Việt Nam và đến Pháp từ năm 15 tuổi, trong tiểu thuyết Sóng ngầm, là hình mẫu tiêu biểu cho kiểu người nhập cư có khả năng chung sống bình đẳng trong môi trường “nước lớn”. Văn “không thuộc số người ly hương mỏi mòn vì xa tổ quốc”. Chất Á còn sót lại trong cái chất Âu của Văn nhỏ đến mức nó có xu hướng bị hòa tan. Văn còn tự xem mình là một “gã công dân toàn cầu”, “chỉ còn chất Á ở dung mạo”. So với nhiều người ly hương, việc hòa nhập của Văn ở xứ người khá thoải mái, nhẹ nhàng, bởi anh có sẵn những phông nền kiến thức và văn hóa phương Tây trước khi đến Pháp. Văn thích hợp với hình thức “da vàng, mặt nạ trắng”, “không day nhấn vào thân phận nhập cư của mình, mà gạch chéo trang lai lịch bản thân”. Văn không tự ti khi sống trên xứ người, “không bị rơi vào cái bẫy co cụm cộng đồng, tiền định dành cho những kẻ vô xứ, khi họ phải chịu cảnh biệt lập”, thậm chí còn kiêu hãnh bởi tự ý thức mình là “cư dân cựu Đông Dương đến Paris không có hành trang nào khác ngoài lòng ham hiểu biết bất thỏa”. Văn đại diện cho một thế hệ người nhập cư mới, có thể sống ly hương ở bất kì đâu. Văn chứng minh cho việc hoàn toàn có thể chung sống bình đẳng trong một môi trường biết chấp nhận và tôn trọng những khác biệt văn hóa, dẫu tự anh không thể chấm dứt tình trạng kì thị hay xu hướng co cụm, mặc cảm của phần lớn người ly hương. Tất nhiên việc đề cao, chú trọng cái chung hơn cái riêng, cái trung tâm hơn là cái ngoại biên, bên lề, của Văn cũng ít nhiều làm mờ dần cái bản sắc thiểu số. Đa văn hóa và liên văn hóa là đặc tính dễ nhận thấy của thời toàn cầu hóa. Song những trả giá của nhân loại và những “mất mát” không dễ nhận thấy của Văn (không nói tiếng mẹ đẻ trong suốt 30 năm sống đời ly hương, không một lần trở về quê hương, không giao tiếp với đồng bào và gần như “mất gốc”) cũng là điều cần suy ngẫm. Để thấy, chung sống bình đẳng, với con người, chưa bao giờ là thật sự dễ dàng.
4. Viễn tượng một “quê xứ con người” 4
Trong một chuyến Bay đêm5, người phi công huyền thoại của nước Pháp Saint-Exupéry đã nhìn về trái đất, và nghĩ về “cõi người ta”, về xứ sở của con người. Từ cái nhìn vũ trụ, với Saint-Exupéry, nhân loại chỉ có một quê hương nguồn cội chung là trái đất, bất chấp những đường biên mà họ dựng nên để tự cô lập, ngăn cách. Hiểu như thế, mọi sự phân chia ranh giới quốc gia chỉ là tương đối. Việc khuôn loài người vào các nhóm, các cộng đồng chỉ căn cứ vào nơi cư trú cũng trở nên bất khả, nhất là khi các giới tuyến không ngừng được dịch chuyển, kéo theo những làn sóng di cư không giới hạn của con người.
Cùng với những cuộc dịch chuyển, mất nơi ở và xác lập nơi ở mới, việc tự nhận biết bản thân thuộc về nơi nào của con người trở nên khó khăn. Quá trình làm quen với không gian cư trú, của những người ly hương lại càng đặc biệt hơn. Họ một mặt, có xu hướng coi nhẹ ranh giới để thích nghi với nơi ở mới, một mặt, tạo lập ranh giới mới để bớt cảm giác “lơ lửng”, chông chênh giữa một chốn hai quê. Hiểu rõ cảm giác không thuộc về đâu của những thân phận ly hương, bằng văn chương, Linda Lê đã xóa nhòa mọi sự phân cách để mỗi người luôn đồng thời là người kia/ kẻ khác. Có thể nói, tính lưỡng phân của giới tuyến đã chi phối cách nhìn của Linda Lê về vấn đề dân tộc - quốc gia trong thời kì toàn cầu hóa. Bởi, như nhiều người nhập cư khác, Linda Lê luôn thuộc về phía bên kia, dẫu nhìn từ bên phía nào của mọi lằn ranh (với Pháp, Linda Lê thuộc về Việt Nam, song với Việt Nam, cô lại là công dân Pháp). Tình trạng lập lờ, nước đôi này là bi kịch nhưng cũng là cơ hội để Linda Lê nhận diện hai mảnh phân thân của những người ly hương, một - gắn với khát khao truy tìm cội nguồn và một - gắn với những lãng quên.
Nhân vật trong tiểu thuyết của Linda Lê thường ý thức rõ về tình trạng thiếu/ mất quê hương và không ngần ngại tự thú: “Chúng tôi không thuộc nơi nào”, “Gốc rễ chúng tôi bập bềnh mặt nước”. Đối thoại của nhân vật người điên trong tiểu thuyết Vu khống với cuốn sách, người bạn duy nhất của anh, đã lột tả sự đơn độc đến tận cùng của những thân phận lưu đày xa xứ: “Tôi tự giới thiệu, Tôi không phải người ở đây. Nó đáp, I’m a stranger here myself” (chính tôi cũng là người lạ ở đây). Chúng tôi quay lưng lại thế giới, chúng tôi cùng đi về một hướng, chúng tôi chinh phục Cõi Không Nơi Nào”. Cuộc đối thoại này thực chất chỉ là một lời độc thoại, dưới danh nghĩa đối thoại với chính mình, cũng là “một cuộc đối chiếu với một tiếng nói vốn là của chúng ta, nhưng trong đó hồi thanh những tiếng nói và những nhu cầu của một người kia, của những kẻ khác6. Có thể nói, đối thoại bằng độc thoại, tự thuật của nhân vật là đặc trưng nổi bật của tiểu thuyết Linda Lê. Trong Thư chết, từ những đối thoại vắng mặt với người cha đã chết của nhân vật “tôi”, Linda Lê đã lột tả những lỗi hẹn đớn đau trong hành trình lần về cội rễ của những đứa con đã có lúc quên lãng quê nhà. Đó là nỗi nhớ “không phải tôi nhớ cha tôi, mà chính tiếng nói, là những lời nói của người”, thứ “tiếng nói đã nâng đỡ tôi suốt 20 năm qua” đã mang theo nỗi đau của một đứa con sống tha hương, khi nhìn về cố quốc: “Chữ L tràn trề nước mắt, chữ O nghẹn tiếng kêu, chữ C tỏa ra ánh trăng bệnh hoạn, chữ S gợi nhắc hình dạng đất nước của tuổi thơ tôi, chữ I run rẩy là hình ảnh của cha tôi, một người cố đứng thẳng nhưng gần ngã gục đến nơi”. Đó còn là “vị sầu tủi dưới lưỡi” của một cái tôi ly hương khác trong lời tự thú “đã lâu rồi tôi không còn cảm thấy vị ấy trong miệng, vị một chất độc nhen bừng máu tôi, hâm nóng gan ruột tôi. Tôi thấy mình trở lại hàng bao năm trước, hồi còn ở Đất Nước” (Vu khống).
Tình thế lưỡng phân là cội nguồn của những cảm xúc mâu thuẫn khi nghĩ về nguồn cội, song hầu hết tiểu thuyết của Linda Lê lại viết về chính những con người ra đi từ nơi ấy. Phải chăng “Phương cách tốt nhất để thoát khỏi cái nỗi ám ảnh về bản sắc là chấp thuận bản sắc trong cái tính chất luôn tạm bợ mong manh của nó và sống với nó một cách hồn nhiên hoặc hãy quên nó đi”7. Tiểu thuyết của Linda Lê còn mang cảm thức hư vô. Nhân vật người điên trong Vu khống chọn cái chết để chấm dứt cuộc sống mờ nhạt, vô danh khi rốt cuộc anh không thuộc về một nơi nào. Antoine Sorel tìm về lại quê hương Việt Nam để lật lại một trang đời của người ông gốc Việt song vẫn mờ mịt, lạc lõng trên chính quê hương bởi sự thờ ơ, quên lãng của lịch sử. Tìm mà không thấy, kể cả thấy cũng không để làm gì, Antoine Sorel rốt cuộc cũng đã mệt mỏi trong quá trình truy tìm cội rễ và căn tính. Cái chết tự chọn của anh là trở thành biểu tượng của thân phận con người khi đối diện với cái hư vô. Trước cái chết, có hay không có sự hiện diện của quê hương trên xứ người cũng đều là vô nghĩa. Truy tìm nguồn cội liệu có thật sự cần thiết trong viễn tượng một “quê xứ con người”.
*
Từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, đại văn hào người Đức Johann Wolfgang von Goethe đã cho rằng: “Ngày nay văn chương của một dân tộc không còn đại diện cho cái gì nhiều nhặn, chúng ta đã bước vào kỷ nguyên văn chương thế giới (die weltliteratur) và trách nhiệm của mỗi người trong chúng ta là đẩy nhanh tiến trình ấy”8. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hôm nay, quan niệm của Goethe lại càng phù hợp, nhất là khi “để đánh giá một cuốn tiểu thuyết người ta có thể không cần hiểu ngôn ngữ gốc”9; cũng như văn chương xét đến cùng chỉ thuộc về người viết ra nó, gắn với những vỉa tầng thẳm sâu của bản ngã. Mang cảm thức chia xé của người ly hương và “can đảm nhìn lại ngôn ngữ và quê hương như một sự bất toàn của mình”10, bằng văn chương, Linda Lê đã đề cập đến “cái giá” của toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa khiến thế giới trở thành ngôi nhà chung hay đã khiến nhân loại đánh mất nguồn cội, chơi vơi trong “cõi không nơi nào”? Toàn cầu hóa liệu có thể xóa được mọi ngăn cách giữa các dân tộc, quốc gia, các nhóm người, trong khi con người mãi mãi không thể loại trừ căn tính gốc? Cho đến giờ, loài người vẫn bất lực khi vừa muốn tạo ra những khối thống nhất vừa muốn đòi lại bản sắc dân tộc vốn kèm theo sự tan rã các nhóm, khối. Không né tránh đề cập tâm lý bấu víu vào cố quốc trong nỗ lực hội nhập của người ly hương, Linda Lê đã chạm đến khát vọng truy tìm cội nguồn, căn tính và cũng là truy tìm bản ngã của nhân loại. Bởi đó là cách để không quên đường về trong quá trình dịch chuyển hướng ra thế giới; bởi nhà, quê hương, tổ quốc xét đến cùng vẫn luôn là chỗ tựa bám víu của con người, ngay cả với viễn tượng toàn nhân loại đều chỉ thuộc về một “quê xứ con người”.
T.P.V.A
(TCSH389/07-2021)
-----------------------
1. Nhận định của Đinh Linh trong lời giới thiệu tiểu thuyết Tiếng nói của Linda Lê, Nxb. Đà Nẵng, 2017.
2. Linda Lê dùng khái niệm “littérature déplacée” (tiếng Anh: displaced literature) để chỉ xu hướng văn học của mình: văn học chuyển vị (văn học chuyển di/văn học di dời).
3. Kundera, Milan (2014), Màn, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.47.
4. Chữ của Bùi Giáng khi dịch nhan đề tiểu thuyết/hồi ký Terre des Hommes của Antoine de Saint-Exupéry (1900- 1944) một nhà văn, một phi công người Pháp.
5. Tên một tác phẩm khác của Antoine de Saint-Exupéry.
6. Magris, Claudio (2006), Không tưởng và thức tỉnh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội. tr.211.
7. Magris, Claudio (2006), Không tưởng và thức tỉnh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.270.
8. Kundera, Milan (2014), Màn, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.53-54.
9. Magris, Claudio (2006), Không tưởng và thức tỉnh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.55
10. Theo Nguyễn Xuân Hoàng, lời “Bạt” của tiểu thuyết Tiếng nói của Linda Lê, Nxb. Đà Nẵng, 2017.
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.