Văn chương nhóm Việt

14:57 26/07/2010
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
Ý thức dấn thân nhập cuộc đã đưa các tác giả trẻ Nhóm Việt đi ra ngoài cái thế giới riêng tư của mình để vươn tới sự cảm thông và chia sẻ thân phận bèo bọt của người cùng khổ, người bị áp bức. Thế đứng đó đã khiến cho Nhóm Việt trở thành một trong rất ít tổ chức văn nghệ ở miền Nam đã bày tỏ tình liên đới đối với đồng bào mình.

Nhóm Việt nhập cuộc


Lực lượng nòng cốt đầu tiên của Nhóm Việt là sinh viên trường Đại học Sư phạm Huế với những bước đi ban đầu: Hội Hồng Sơn và Phòng sinh hoạt giáo dục, văn học nghệ thuật. Và đến năm 1968, Nhóm Việt Tạp chí Việt ra đời (xuất bản được 5 số). Nhóm Việt đã đóng góp hàng trăm truyện ngắn, hàng nghìn bài thơ, chưa kể các bài phê bình, lý luận, biên khảo, các tác phẩm thuộc thể loại khác như nhạc, họa. Nhóm Việt đã nhập cuộc, “xuống đường”, có mặt trong “những đêm không ngủ”, “đoàn sinh viên quyết tử” và “hát cho đồng bào tôi nghe” tại các thành thị Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Sài Gòn. Nhóm Việt đã uỷ nhiệm Trần Hữu Lục phụ trách phần văn nghệ của tạp chí Đối Diện từ năm 1971 đến năm 1975. Một số tác phẩm của Nhóm Việt đã được tạp chí Đối Diện xuất bản như: Cách một dòng sông (tập truyện của Trần Hữu Lục), Rừng dậy men mùa (tập thơ của Đông Trình), Trước khi mặt trời mọc (tập truyện của Trần Duy Phiên).

Vào thời thanh xuân, những tác giả trẻ của Nhóm Việt đã có những hoạt động tích cực, trở thành một trong những trường hợp tiêu biểu về khuynh hướng hiện thực và cách mạng trong phong trào văn học yêu nước những năm tháng đó. Tác phẩm của họ đã được báo chí, đài phát thanh vùng giải phóng miền Nam và miền Bắc, các báo chí tiến bộ của Việt kiều như Thế Hệ, Tiền Phong (Canada), Sứ Mệnh (Nhật), Thức (Cộng hòa Liên bang Đức), Liên Hiệp, Gió Nội (Pháp)… in lại. Lực lượng Việt ngày càng chặt chẽ và phát triển, ảnh hưởng ngày càng rộng lớn và tính cách mạng ngày càng đậm nét. Nhóm Việt “không chỉ là lên tiếng, mà còn là lên tiếng một cách nghệ thuật”. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà văn, thơ Nhóm Việt đã nhiều lần được chọn vào các tuyển tập văn học trong hơn 20 năm qua. Với ý thức dấn thân trong một chọn lựa nghệ thuật, dẫu sau một khoảng cách 30 năm, vẫn mang ý nghĩa tinh khôi của nó. Sáng tác của mỗi tác giả trong Nhóm Việt, tuy hòa chung vào phong trào đấu tranh đô thị miền Nam, nhưng đã sớm bộc lộ sắc thái, nét riêng rất dễ nhận biết của mỗi người.

Thơ văn Nhóm Việt

Dẫu sau một khoảng thời gian, ngày nay đọc hai tuyển tập “Truyện ngắn Việt” và “Thơ - Nhạc - Họa Việt” vẫn còn mang “ý nghĩa tinh khôi của nó”. Trong dòng văn hóa văn nghệ yêu nước tiến bộ giữa vùng địch tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam, có một lực lượng quan trọng là những sinh viên, học sinh đã “xuống đường” bằng trái tim và khối óc, sáng tác bằng tất cả tâm huyết của mình và đã có những cống hiến đầy ý nghĩa về phẩm cũng như về lượng tác phẩm cho nền văn học nghệ thuật cách mạng. Nhóm Việt là một tập hợp những người trẻ sáng tác văn học nghệ thuật của dòng văn nghệ yêu nước tại đô thị lúc ấy. Những cây bút của Nhóm Việt đã có phần đóng góp đáng kể. Sáng tác văn, thơ, nhạc, họa, biên khảo… của Nhóm Việt với ý hướng “về nguồn” đã được chọn in lại trong các tuyển tập Bút máu (1974), Mùa xuân chim én bay về, Tiếng hát những người đi tới, Văn học yêu nước, tiến bộ, cách mạng trên văn đàn công khai Sài Gòn (1954-1975), Tuyển tập văn và Tuyển tập thơ (1945-1975) của Hội Nhà Văn TP. Hồ Chí Minh. Tháng 9-1997, Tuyển tập truyện ngắn Việt của sáu tác giả Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Trần Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Sơn, Trường Sơn Ca (Tiêu Dao Bảo Cự), Võ Trường Chinh. Đọc văn của Nhóm Việt được tuyển chọn trong tuyển tập này, theo TS-Nhà văn Huỳnh Như Phương: “Chúng ta không chỉ đọc tuổi trẻ của họ mà còn đọc số phận nhân dân, số phận những người bị bức hại. Ý thức nhập cuộc đã đưa các nhà văn đi ra ngoài cái thế giới riêng tư của mình để vươn tới sự cảm thông và chia sẻ thân phận bèo bọt của những người bị thiệt thòi nhất trong xã hội miền Nam trước 1975” và “…Trong những điều kiện khắc nghiệt nhất của lịch sử, đã hình thành một tổ chức văn nghệ trẻ không chịu để cho ngòi bút của mình ngả theo xu hướng bợ đỡ các thế lực cầm quyền trong xã hội và không chọn con đường văn nghệ “viễn mơ” làm sự nghiệp - con đường chắc chắn sẽ đem lại cho người cầm bút một vị trí yên ổn và thuận lợi trước một công chúng thời thượng trong các thành thị bị tạm chiếm”. (Lời tựa - Tuyển tập truyện ngắn Việt - NXB Trẻ 1997). Tháng 12-1998, Tuyển tập Thơ Nhạc Họa Việt của 11 tác giả Đông Trình, Lê Văn Ngăn, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Đông Nhật, Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc, Trường Sơn, Võ Quê… (thơ), Nguyễn Phú Yên (nhạc) và Bửu Chỉ (họa)… là những cây bút đã có một thời “tâm huyết đổ ra trên đầu ngọn bút chỉ là vi ti huyết quản nhưng trăm sông về biển, trăm ngàn vi ti huyết quản đã hợp thành dòng chảy tươi đỏ và đầy sức sống trong châu thân của người mẹ Tổ quốc Việt Nam” (Lời giới thiệu của NXB Trẻ, 12-1998).

Tuyển tập Thơ Nhạc Họa Việt gồm có 44 bài thơ, 10 bài hát, 10 bức tranh và bài viết của những người hoạt động cùng thời và những nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật. Viết về thơ Nhóm Việt có hai nhà nghiên cứu văn học Thạch Phương và Trần Thức, viết về nhạc có nhạc sĩ Tôn Thất Lập và giáo sư - nhạc sĩ Thế Bảo, viết về họa có nhạc sĩ - họa sĩ Trịnh Công Sơn và nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật Huỳnh Hữu Ủy. Và phần phụ lục: “Những chặng đường của Nhóm Việt” của hai nhà nghiên cứu Trần Thức và Hoàng Dũng. Những trang thơ, nhạc, họa trong Tuyển tập này đã được sáng tác trong những hoàn cảnh và thời điểm khác nhau. Hầu hết được sáng tác tại đô thị (giảng đường, hội thảo, xuống đường…) và một ít trong nhà tù và vùng giải phóng nên khá đa dạng trong tiếng nói nghệ thuật của Nhóm Việt.

Từ “sức bật của một đội ngũ cầm bút trẻ”, người làm thơ đã có ý thức sử dụng sáng tác của mình đi sâu vào quần chúng để phục vụ cho cuộc đấu tranh: Tố cáo tội ác kẻ thù, bảo vệ quê hương, đòi hỏi tự do, hòa bình, ca ngợi những cuộc lên đường, ý chí chiến đấu, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, không sợ hy sinh… Sáng tác của mỗi tác giả Nhóm Việt, tuy hòa chung vào phong trào đấu tranh đô thị miền Nam, nhưng đã sớm bộc lộ sắc thái của mỗi người. Cái nét riêng ấy không chỉ là một thái độ dấn thân, nhập cuộc, chọn đường:

                        Ta mang trong tim một nguồn lửa cháy
                        Đáp lại lời quê hương
                        Đáp lại lời Tổ quốc
                        Vùng dậy.
                        Lên đường!
                                     (Thái Ngọc San - Tiếng gọi thanh niên)

mà còn là một niềm tin son sắt của tuổi trẻ:

                        Năm hai mươi tuổi khởi sự cuộc lên đường
                        Người thừa tự mang niềm tin lập quốc
                                                  (Trường Sơn - Cuộc lên đường)

và ca ngợi sự hy sinh vô bờ bến của nhân dân, ca ngợi đất nước:

                        Tôi lắng nghe lịch sử bốn ngàn năm
                        Thoảng động trên tơ tiếng hát xa xăm
                        Có bước chân ta mở đường Nam tiến
                        Ào ạt gió rừng, vi vu sóng biển
                        Bát ngát đồng bằng, cao ngất Trường Sơn
                                                (Đông Trình - Tiếng đàn bầu)

                        Dưới túp lều hoang mẹ mở cửa đón con về
                        Đoàn con yêu gian nan giữ nước
                        Từ núi rừng về nối lại tình quê
                        Dòng máu hôm qua thắm màu cờ tổ quốc
                        Ngày mai đây nở thành hạt lúa vàng.
                                     (Tần Hoài Dạ Vũ - Chào mừng nắng mai -
                               Trong Tuyển tập Tiếng hát những người đi tới - 1993)

Cái sắc thái ấy còn biểu lộ ở một tình yêu rất cụ thể:

                        Tiếng sóng nơi em bắt nhịp với còi tàu Long Biên
                        Và những vườn hoa bưởi
                        Những vại nước lấm tấm bông cau
                        Cũng có mùi hoa gạo
                        Cho nên, tiếng bom nổ ở miền Bắc
                        Dù không nói, tôi cũng biết lòng em chấn động
                                           (Lê Văn Ngăn - Sóng vẫn đập vào eo biển)

Cả những hoàn cảnh tưởng chừng như tuyệt vọng:

                        Bé thơ ơi,
                        Đừng khóc để lòng vui
                        Vắt cơm tù không đủ mặn bờ môi
                        Bé ngậm đỡ
                        Ngày mai ta trả lại
                        Giặc cùng đường
                        Giặc giam ta đói
                        Nhưng sợ gì lòng ái quốc ta no
                        Đêm nay mẹ cất tiếng hò
                        Vẳng trong lời mẹ con đò đưa quân
                                    (Võ Quê - Cho người bạn tù sơ sinh)

Đọc thơ của tác giả Nhóm Việt, nhà nghiên cứu văn học Trần Thức đã cảm nhận “Độ nóng toát ra từ chất liệu nghệ thuật. Có thể nói, trong thơ của họ, lửa là chất kết dính mọi cảm hứng sáng tạo với hình thức biểu hiện”. Đấy là ngọn lửa ấm nồng, có lúc hừng hực, giục giã, có khi phẫn nộ, và không ngừng nung nấu niềm tin và hy vọng, dù phải đương đầu với những thử thách khốc liệt, thậm chí phải trả giá cho sự chọn lựa bằng chính sinh mệnh của mình. Âm hưởng tráng ca vẫn là âm hưởng chủ đạo thổi xuyên suốt các tác phẩm Nhóm Việt. Và người đọc phải luyện cho mình cách “đọc giữa hai hàng chữ” mới hiểu được tấm lòng của tác giả.

Về mặt nghệ thuật, những Đông Trình, Lê Văn Ngăn, Võ Quê, Tần Hoài Dạ Vũ, Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc… đã định hình phong cách ngay từ trên chiến hào, lúc xuống đường, hay trong lao tù… Các tác giả Nhóm Việt đã góp một giọng rất riêng trong dòng văn học yêu nước cách mạng. Những bài thơ ngày ấy vẫn còn lan tỏa ngày nay. Có thể kể đến Hạo khí ca, Hoa đã hướng dương (Đông Trình), Chào mừng nắng mai (Tần Hoài Dạ Vũ) Sóng vẫn đập vào eo biển, Vì sao những lời quyết liệt (Lê Văn Ngăn), Tiếng gọi thanh niên, Lòng ngưỡng mộ (Thái Ngọc San), Thừa Phủ ơi, lòng ta hồng biển lửa, Cho người bạn tù sơ sinh (Võ Quê), Mẹ phù sa (Trần Phá Nhạc)…

Âm hưởng tráng ca đó cũng là âm hưởng chủ đạo trong các bài hát Thuyền em đi trong đêm, Thừa Phủ ơi, lòng ta hồng biển lửa (phổ thơ Võ Quê), Tiếng gọi thanh niên (phổ thơ Thái Ngọc San). Sài Gòn ơi, vùng lên của Nguyễn Phú Yên, qua đường nét mạnh mẽ mà dứt khoát, sắc sảo mà lay động trong các bức tranh Phận người, Ngọn Hòa bình, Mẹ Hòa bình, Một tuổi thơ chưa kịp lớn, Hãy cùng bay lên với khát vọng… của Bửu Chỉ. Vào thời điểm ấy, tranh của Bửu Chỉ đã được in lại trên nhiều tờ báo tiến bộ ở nước ngoài. Tất nhiên, bên cạnh những quả chín vẫn còn những quả còn xanh, vẫn còn một ít bài thơ, câu thơ của “văn nghệ phong trào”.

Đọc thơ văn Nhóm Việt để sống lại một thời lịch sử tuyệt đẹp và đáng ghi nhớ. Ở đấy, “tiếng nói giàu chất trữ tình, giàu tính chiến đấu” cũng là “hơi thở của lớp trẻ Việt Nam”, những người đã cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình, đồng hành đi tìm và vươn tới mùa xuân vĩnh cửu của đất nước.

Trong điều kiện sống và viết vô cùng nghiệt ngã, trong lúc sinh mệnh của người cầm bút chân chính luôn luôn bị đe dọa, nhiều khi người đọc phải luyện cho mình cách “đọc giữa hai hàng chữ” mới hiểu được tấm lòng tác giả. Từ Hồng Sơn đến Việt là một chặng đường biết bao gian nan thử thách, Nhóm Việt gần như là nhóm văn học nghệ thuật duy nhất tồn tại lâu dài đến như vậy trong phong trào đấu tranh đô thị ở miền Nam. Phần lớn anh em Nhóm Việt hiện nay đang tiếp tục phát huy ngòi bút của mình. Nhóm Việt đã có những nhà thơ, nhà văn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (Đông Trình, Võ Quê, Lê Văn Ngăn, Trần Hữu Lục, Tần Hoài Dạ Vũ), hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam (Bửu Chỉ), Hội Nhạc sĩ Việt Nam (Nguyễn Phú Yên).

Có một thời thanh xuân, Nhóm Việt đã dấn thân như thế.

T.H.L
(257/7-10)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

  • LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

  • MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

  • SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.

  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.