Ý thức dấn thân nhập cuộc đã đưa các tác giả trẻ Nhóm Việt đi ra ngoài cái thế giới riêng tư của mình để vươn tới sự cảm thông và chia sẻ thân phận bèo bọt của người cùng khổ, người bị áp bức. Thế đứng đó đã khiến cho Nhóm Việt trở thành một trong rất ít tổ chức văn nghệ ở miền Nam đã bày tỏ tình liên đới đối với đồng bào mình. Nhóm Việt nhập cuộc Lực lượng nòng cốt đầu tiên của Nhóm Việt là sinh viên trường Đại học Sư phạm Huế với những bước đi ban đầu: Hội Hồng Sơn và Phòng sinh hoạt giáo dục, văn học nghệ thuật. Và đến năm 1968, Nhóm Việt và Tạp chí Việt ra đời (xuất bản được 5 số). Nhóm Việt đã đóng góp hàng trăm truyện ngắn, hàng nghìn bài thơ, chưa kể các bài phê bình, lý luận, biên khảo, các tác phẩm thuộc thể loại khác như nhạc, họa. Nhóm Việt đã nhập cuộc, “xuống đường”, có mặt trong “những đêm không ngủ”, “đoàn sinh viên quyết tử” và “hát cho đồng bào tôi nghe” tại các thành thị Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Sài Gòn. Nhóm Việt đã uỷ nhiệm Trần Hữu Lục phụ trách phần văn nghệ của tạp chí Đối Diện từ năm 1971 đến năm 1975. Một số tác phẩm của Nhóm Việt đã được tạp chí Đối Diện xuất bản như: Cách một dòng sông (tập truyện của Trần Hữu Lục), Rừng dậy men mùa (tập thơ của Đông Trình), Trước khi mặt trời mọc (tập truyện của Trần Duy Phiên). Vào thời thanh xuân, những tác giả trẻ của Nhóm Việt đã có những hoạt động tích cực, trở thành một trong những trường hợp tiêu biểu về khuynh hướng hiện thực và cách mạng trong phong trào văn học yêu nước những năm tháng đó. Tác phẩm của họ đã được báo chí, đài phát thanh vùng giải phóng miền Nam và miền Bắc, các báo chí tiến bộ của Việt kiều như Thế Hệ, Tiền Phong (Canada), Sứ Mệnh (Nhật), Thức (Cộng hòa Liên bang Đức), Liên Hiệp, Gió Nội (Pháp)… in lại. Lực lượng Việt ngày càng chặt chẽ và phát triển, ảnh hưởng ngày càng rộng lớn và tính cách mạng ngày càng đậm nét. Nhóm Việt “không chỉ là lên tiếng, mà còn là lên tiếng một cách nghệ thuật”. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà văn, thơ Nhóm Việt đã nhiều lần được chọn vào các tuyển tập văn học trong hơn 20 năm qua. Với ý thức dấn thân trong một chọn lựa nghệ thuật, dẫu sau một khoảng cách 30 năm, vẫn mang ý nghĩa tinh khôi của nó. Sáng tác của mỗi tác giả trong Nhóm Việt, tuy hòa chung vào phong trào đấu tranh đô thị miền Nam, nhưng đã sớm bộc lộ sắc thái, nét riêng rất dễ nhận biết của mỗi người. Thơ văn Nhóm Việt Dẫu sau một khoảng thời gian, ngày nay đọc hai tuyển tập “Truyện ngắn Việt” và “Thơ - Nhạc - Họa Việt” vẫn còn mang “ý nghĩa tinh khôi của nó”. Trong dòng văn hóa văn nghệ yêu nước tiến bộ giữa vùng địch tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam, có một lực lượng quan trọng là những sinh viên, học sinh đã “xuống đường” bằng trái tim và khối óc, sáng tác bằng tất cả tâm huyết của mình và đã có những cống hiến đầy ý nghĩa về phẩm cũng như về lượng tác phẩm cho nền văn học nghệ thuật cách mạng. Nhóm Việt là một tập hợp những người trẻ sáng tác văn học nghệ thuật của dòng văn nghệ yêu nước tại đô thị lúc ấy. Những cây bút của Nhóm Việt đã có phần đóng góp đáng kể. Sáng tác văn, thơ, nhạc, họa, biên khảo… của Nhóm Việt với ý hướng “về nguồn” đã được chọn in lại trong các tuyển tập Bút máu (1974), Mùa xuân chim én bay về, Tiếng hát những người đi tới, Văn học yêu nước, tiến bộ, cách mạng trên văn đàn công khai Sài Gòn (1954-1975), Tuyển tập văn và Tuyển tập thơ (1945-1975) của Hội Nhà Văn TP. Hồ Chí Minh. Tháng 9-1997, Tuyển tập truyện ngắn Việt của sáu tác giả Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Trần Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Sơn, Trường Sơn Ca (Tiêu Dao Bảo Cự), Võ Trường Chinh. Đọc văn của Nhóm Việt được tuyển chọn trong tuyển tập này, theo TS-Nhà văn Huỳnh Như Phương: “Chúng ta không chỉ đọc tuổi trẻ của họ mà còn đọc số phận nhân dân, số phận những người bị bức hại. Ý thức nhập cuộc đã đưa các nhà văn đi ra ngoài cái thế giới riêng tư của mình để vươn tới sự cảm thông và chia sẻ thân phận bèo bọt của những người bị thiệt thòi nhất trong xã hội miền Nam trước 1975” và “…Trong những điều kiện khắc nghiệt nhất của lịch sử, đã hình thành một tổ chức văn nghệ trẻ không chịu để cho ngòi bút của mình ngả theo xu hướng bợ đỡ các thế lực cầm quyền trong xã hội và không chọn con đường văn nghệ “viễn mơ” làm sự nghiệp - con đường chắc chắn sẽ đem lại cho người cầm bút một vị trí yên ổn và thuận lợi trước một công chúng thời thượng trong các thành thị bị tạm chiếm”. (Lời tựa - Tuyển tập truyện ngắn Việt - NXB Trẻ 1997). Tháng 12-1998, Tuyển tập Thơ Nhạc Họa Việt của 11 tác giả Đông Trình, Lê Văn Ngăn, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Đông Nhật, Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc, Trường Sơn, Võ Quê… (thơ), Nguyễn Phú Yên (nhạc) và Bửu Chỉ (họa)… là những cây bút đã có một thời “tâm huyết đổ ra trên đầu ngọn bút chỉ là vi ti huyết quản nhưng trăm sông về biển, trăm ngàn vi ti huyết quản đã hợp thành dòng chảy tươi đỏ và đầy sức sống trong châu thân của người mẹ Tổ quốc Việt Nam” (Lời giới thiệu của NXB Trẻ, 12-1998). Tuyển tập Thơ Nhạc Họa Việt gồm có 44 bài thơ, 10 bài hát, 10 bức tranh và bài viết của những người hoạt động cùng thời và những nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật. Viết về thơ Nhóm Việt có hai nhà nghiên cứu văn học Thạch Phương và Trần Thức, viết về nhạc có nhạc sĩ Tôn Thất Lập và giáo sư - nhạc sĩ Thế Bảo, viết về họa có nhạc sĩ - họa sĩ Trịnh Công Sơn và nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật Huỳnh Hữu Ủy. Và phần phụ lục: “Những chặng đường của Nhóm Việt” của hai nhà nghiên cứu Trần Thức và Hoàng Dũng. Những trang thơ, nhạc, họa trong Tuyển tập này đã được sáng tác trong những hoàn cảnh và thời điểm khác nhau. Hầu hết được sáng tác tại đô thị (giảng đường, hội thảo, xuống đường…) và một ít trong nhà tù và vùng giải phóng nên khá đa dạng trong tiếng nói nghệ thuật của Nhóm Việt. Từ “sức bật của một đội ngũ cầm bút trẻ”, người làm thơ đã có ý thức sử dụng sáng tác của mình đi sâu vào quần chúng để phục vụ cho cuộc đấu tranh: Tố cáo tội ác kẻ thù, bảo vệ quê hương, đòi hỏi tự do, hòa bình, ca ngợi những cuộc lên đường, ý chí chiến đấu, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, không sợ hy sinh… Sáng tác của mỗi tác giả Nhóm Việt, tuy hòa chung vào phong trào đấu tranh đô thị miền Nam, nhưng đã sớm bộc lộ sắc thái của mỗi người. Cái nét riêng ấy không chỉ là một thái độ dấn thân, nhập cuộc, chọn đường: Ta mang trong tim một nguồn lửa cháy Đáp lại lời quê hương Đáp lại lời Tổ quốc Vùng dậy. Lên đường! (Thái Ngọc San - Tiếng gọi thanh niên) mà còn là một niềm tin son sắt của tuổi trẻ: Năm hai mươi tuổi khởi sự cuộc lên đường Người thừa tự mang niềm tin lập quốc (Trường Sơn - Cuộc lên đường) và ca ngợi sự hy sinh vô bờ bến của nhân dân, ca ngợi đất nước: Tôi lắng nghe lịch sử bốn ngàn năm Thoảng động trên tơ tiếng hát xa xăm Có bước chân ta mở đường Nam tiến Ào ạt gió rừng, vi vu sóng biển Bát ngát đồng bằng, cao ngất Trường Sơn (Đông Trình - Tiếng đàn bầu) Dưới túp lều hoang mẹ mở cửa đón con về Đoàn con yêu gian nan giữ nước Từ núi rừng về nối lại tình quê Dòng máu hôm qua thắm màu cờ tổ quốc Ngày mai đây nở thành hạt lúa vàng. (Tần Hoài Dạ Vũ - Chào mừng nắng mai - Trong Tuyển tập Tiếng hát những người đi tới - 1993) Cái sắc thái ấy còn biểu lộ ở một tình yêu rất cụ thể: Tiếng sóng nơi em bắt nhịp với còi tàu Long Biên Và những vườn hoa bưởi Những vại nước lấm tấm bông cau Cũng có mùi hoa gạo Cho nên, tiếng bom nổ ở miền Bắc Dù không nói, tôi cũng biết lòng em chấn động (Lê Văn Ngăn - Sóng vẫn đập vào eo biển) Cả những hoàn cảnh tưởng chừng như tuyệt vọng: Bé thơ ơi, Đừng khóc để lòng vui Vắt cơm tù không đủ mặn bờ môi Bé ngậm đỡ Ngày mai ta trả lại Giặc cùng đường Giặc giam ta đói Nhưng sợ gì lòng ái quốc ta no Đêm nay mẹ cất tiếng hò Vẳng trong lời mẹ con đò đưa quân (Võ Quê - Cho người bạn tù sơ sinh) Đọc thơ của tác giả Nhóm Việt, nhà nghiên cứu văn học Trần Thức đã cảm nhận “Độ nóng toát ra từ chất liệu nghệ thuật. Có thể nói, trong thơ của họ, lửa là chất kết dính mọi cảm hứng sáng tạo với hình thức biểu hiện”. Đấy là ngọn lửa ấm nồng, có lúc hừng hực, giục giã, có khi phẫn nộ, và không ngừng nung nấu niềm tin và hy vọng, dù phải đương đầu với những thử thách khốc liệt, thậm chí phải trả giá cho sự chọn lựa bằng chính sinh mệnh của mình. Âm hưởng tráng ca vẫn là âm hưởng chủ đạo thổi xuyên suốt các tác phẩm Nhóm Việt. Và người đọc phải luyện cho mình cách “đọc giữa hai hàng chữ” mới hiểu được tấm lòng của tác giả. Về mặt nghệ thuật, những Đông Trình, Lê Văn Ngăn, Võ Quê, Tần Hoài Dạ Vũ, Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc… đã định hình phong cách ngay từ trên chiến hào, lúc xuống đường, hay trong lao tù… Các tác giả Nhóm Việt đã góp một giọng rất riêng trong dòng văn học yêu nước cách mạng. Những bài thơ ngày ấy vẫn còn lan tỏa ngày nay. Có thể kể đến Hạo khí ca, Hoa đã hướng dương (Đông Trình), Chào mừng nắng mai (Tần Hoài Dạ Vũ) Sóng vẫn đập vào eo biển, Vì sao những lời quyết liệt (Lê Văn Ngăn), Tiếng gọi thanh niên, Lòng ngưỡng mộ (Thái Ngọc San), Thừa Phủ ơi, lòng ta hồng biển lửa, Cho người bạn tù sơ sinh (Võ Quê), Mẹ phù sa (Trần Phá Nhạc)… Âm hưởng tráng ca đó cũng là âm hưởng chủ đạo trong các bài hát Thuyền em đi trong đêm, Thừa Phủ ơi, lòng ta hồng biển lửa (phổ thơ Võ Quê), Tiếng gọi thanh niên (phổ thơ Thái Ngọc San). Sài Gòn ơi, vùng lên của Nguyễn Phú Yên, qua đường nét mạnh mẽ mà dứt khoát, sắc sảo mà lay động trong các bức tranh Phận người, Ngọn Hòa bình, Mẹ Hòa bình, Một tuổi thơ chưa kịp lớn, Hãy cùng bay lên với khát vọng… của Bửu Chỉ. Vào thời điểm ấy, tranh của Bửu Chỉ đã được in lại trên nhiều tờ báo tiến bộ ở nước ngoài. Tất nhiên, bên cạnh những quả chín vẫn còn những quả còn xanh, vẫn còn một ít bài thơ, câu thơ của “văn nghệ phong trào”. Đọc thơ văn Nhóm Việt để sống lại một thời lịch sử tuyệt đẹp và đáng ghi nhớ. Ở đấy, “tiếng nói giàu chất trữ tình, giàu tính chiến đấu” cũng là “hơi thở của lớp trẻ Việt Nam”, những người đã cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình, đồng hành đi tìm và vươn tới mùa xuân vĩnh cửu của đất nước. Trong điều kiện sống và viết vô cùng nghiệt ngã, trong lúc sinh mệnh của người cầm bút chân chính luôn luôn bị đe dọa, nhiều khi người đọc phải luyện cho mình cách “đọc giữa hai hàng chữ” mới hiểu được tấm lòng tác giả. Từ Hồng Sơn đến Việt là một chặng đường biết bao gian nan thử thách, Nhóm Việt gần như là nhóm văn học nghệ thuật duy nhất tồn tại lâu dài đến như vậy trong phong trào đấu tranh đô thị ở miền Nam. Phần lớn anh em Nhóm Việt hiện nay đang tiếp tục phát huy ngòi bút của mình. Nhóm Việt đã có những nhà thơ, nhà văn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (Đông Trình, Võ Quê, Lê Văn Ngăn, Trần Hữu Lục, Tần Hoài Dạ Vũ), hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam (Bửu Chỉ), Hội Nhạc sĩ Việt Nam (Nguyễn Phú Yên). Có một thời thanh xuân, Nhóm Việt đã dấn thân như thế. T.H.L (257/7-10) |
TRẦN HUYỀN TRÂNNgày 10 - 10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Công ty Văn hóa Phương Nam đã tổ chức buổi tọa đàm về tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường của nhà văn Nguyễn Khắc Phê. Buổi tọa đàm đã thu hút sự quan tâm sâu sắc của các nhà văn, nhà nghiên cứu và đông đảo sinh viên các trường đại học.
KIM QUYÊNSau tập thơ Ngày đầu tiên(*), nhà văn Trần Hữu Lục tiếp tục ra mắt bạn đọc tập Góc nhìn văn chương(**) và anh sẽ xuất bản tập truyện ngắn Trần Hữu Lục (tuyển chọn năm 2010). Thật là một mùa bội thu với nhà văn Trần Hữu Lục.
HỒNG DIỆU(Nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng *)
MAI VĂN HOANTôi cố hình dung những tháng ngày nhà văn Hồng Nhu trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh từng gắn bó đã hơn hai mươi năm với bao kỷ niệm vui buồn.
KHẢI PHONG“Thơ kỵ nhất viết điều người đã viết! Nhưng biết sao, khi tôi mến sông Cầu…Lòng khẽ nhắc: đừng nói điều đã viết,Sao âm vang cứ mãi gọi: sông Cầu”
(Về cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên Huế do Sông Hương tổ chức)BAN TỔ CHỨC CUỘC THINhằm tạo không khí sáng tác, phát hiện các cây bút trẻ Huế, trong khuôn khổ Chương trình Phát triển Tài năng Trẻ, Tạp chí Sông Hương tổ chức Cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên đang theo học các trường đại học và cao đẳng ở Huế.
LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.
PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.
NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.
LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.
LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.
Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.
PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)
NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.
LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.