VĂN THAO
Trích hồi ký Văn Cao - Đời & nghiệp
Mùa thu năm 1947, từ Lào Cai, Văn Cao trở về Vĩnh Yên. Ông cùng gia đình mở một quán cà phê tại chợ Me Lập Thạch tiếp tục làm báo Độc Lập và phụ trách một cơ sở in báo đóng tại Thản Sơn.
Nhạc sĩ Văn Cao - Ảnh: Nguyễn Đình Toán
Ông cảm thấy thanh thản khi được trở về với những công việc thân quen và yêu thích: Làm thơ - vẽ - sáng tác âm nhạc v.v. Quán cà phê của ông tại “Thị trấn Me Đồi” luôn đông vui, tấp nập. Nơi dừng chân của dân tản cư, nơi tụ tập, đàm đạo văn chương của giới văn nghệ sĩ kháng chiến… “Thị trấn Me Đồi” trong những năm đó là cửa ngõ giữa vùng địch tạm chiếm và căn cứ địa của cuộc kháng chiến.
Tháng 10/1947, Tây nhảy dù Bắc Cạn. Bọn giặc tập trung 12.000 quân bao vây và tấn công Việt Bắc, hòng tiêu diệt các cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Chiến thuyền giặc theo đường sông Lô đánh lên Tuyên Quang. Giữa lúc “nước sôi lửa bỏng” đó, Văn Cao được lệnh của Tố Hữu điều lên Việt Bắc (ông Tố Hữu lúc đó mới được điều từ khu 4 lên phụ trách văn nghệ). Việc đầu tiên, Tố Hữu chủ chương là tập hợp cho được văn nghệ sĩ trong và ngoài Hội Văn hóa cứu quốc đi theo kháng chiến chuẩn bị thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam và ra báo Văn Nghệ. Người liên lạc theo lệnh của Tố Hữu, dẫn Văn Cao cùng vợ con ra bến Then để vượt sông Lô sang Phú Thọ. Trời chiều. Bầu trời ảm đạm - mùa đông năm ấy đến sớm, gió từ mặt sông thổi lên từng cơn làm mọi người ớn lạnh. Có hai tốp người đợi qua sông trên bến. Một tốp buôn vải và một tốp buôn muối, mỗi tốp khoảng hơn chục người. Người liên lạc đưa gia đình Văn Cao lên chuyến đò đầu tiên cùng với tốp người buôn vải từ dưới xuôi lên Việt Bắc. Con đò hối hả qua sông mọi người ngồi co ro trong thuyền một cách trật tự và yên lặng, thỉnh thoảng có tiếng trao đổi xì xào và tiếng sóng vỗ ì oạp vào mạn thuyền.
|
Sông Lô, đoạn chảy qua Phú Thọ - Ảnh: wiki |
Thuyền cập bến, mọi người vội vã khẩn trương rời xa bến đò càng nhanh càng tốt vì nơi ấy thường bị giặc phục kích. Đưa vợ con lên bờ, Văn Cao tìm không thấy người liên lạc đâu. Không có nhẽ người liên lạc đi chuyến sau với tốp buôn muối? Một thoáng nghi ngại trong đầu, Văn Cao quyết định đưa vợ con nhập theo toán buôn vải cho có bạn đường. Qua khỏi bến đò chừng một cây số, Văn Cao cho vợ con nghỉ lại ven một quả đồi. Người vợ trẻ lúc đó của ông đang mang thai. Chợt phía trước những tràng súng rộ lên dữ dội. Văn Cao giật mình, rồi không gian cũng yên tĩnh trở lại. Văn Cao hiểu rằng tốp buôn vải đã lọt vào ổ phục kích của giặc. Một lúc sau, tốp người buôn muối sang đò chuyến sau cũng đã đi đến. Không thấy người liên lạc. Linh tính cho Văn Cao biết có chuyện gì đó không bình thường. Bằng những kinh nghiệm hoạt động bí mật của mình, Văn Cao quyết định đưa vợ con đi luồn lách men dòng sông Lô ngược lên.
Ngày 24/10/1947, bộ đội pháo binh của ta đã chiến thắng giòn giã trên sông Lô. Bắn cháy hai tàu chiến của giặc, bắn bị thương hai chiếc khác, tiêu diệt hàng trăm tên địch. Tuyến vận chuyển đường sông Lô bị cắt đứt hoàn toàn, máy bay địch phải nhảy dù tiếp tế cho Tuyên Quang. Cùng chiến thắng Bình Ca - chiến thắng sông Lô lẫy lừng đã bẻ gẫy hoàn toàn cuộc bao vây và tấn công lên Việt Bắc của quân Pháp nhằm tiêu diệt các cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Báo chí Pháp gọi đây là “thảm họa Đoan Hùng”.
Chuyến đi của Văn Cao lên Việt Bắc xảy ra đúng lúc giặc Pháp thua trận đang trên đường rút quân trở về. Đi đến đâu bọn địch cũng đốt phá, cướp bóc đến đó. Văn Cao đã nhìn thấy những xóm làng ven sông bị địch đốt trụi, những nền “nhà khô trơ than xám”. Những niềm vui trên khuôn mặt của dân chúng sau chiến thắng sông Lô. Họ trở về với xóm làng, dựng lại nhà cửa trong những đêm gió rét và “Từng sân vui bồng người bên lửa hồng” Văn Cao cũng chứng kiến những “Thây giặc trôi trở về ngập bờ” trên những khúc sông mà ông đã đi qua. Nỗi xúc động ngập tràn trong lòng ông. Âm hưởng của chiến thắng bừng sáng trong những gương mặt của các cụ già, của những bé thơ, của những “Đoàn quân thời chinh chiến” mà ông gặp gỡ trên đường lên chiến khu. Dòng sông Lô bình dị từ ngày xưa không còn nữa. Trước mặt ông dòng sông Lô trở nên hùng vĩ, bao la, tràn trề sức sống…
Vài ngày sau Văn Cao đã lên đến Vũ Ẻn. Ông sắp xếp cho vợ ở cùng với gia đình nhà ngoại (đã tản cư lên đây từ đầu năm 1947) rồi mới vào Gia Điền nơi cơ quan văn nghệ đang đóng ở đó. Nguyên Hồng - Nguyễn Đình Thi - Nguyễn Huy Tưởng… vui mừng được gặp lại Văn Cao bởi họ đã nhận được tin “Văn Cao cùng vợ và con đã chết vì bị Tây phục kích trên đường”. Văn Cao chỉ cười “Số mình cao lắm chết không dễ đâu…”. Nguyễn Huy Tưởng rỉ tai Văn Cao: “Tố Hữu được giao phục trách văn nghệ, bọn mình phải chuẩn bị tập hợp bài vở để ra báo Văn Nghệ, có cậu lên giúp một tay thì hay quá. Hôm Tố Hữu bảo gọi cậu lên, anh em không nhất trí. Giặc đang càn lớn, lên lúc này không an toàn… Vậy mà ông ấy nghe đâu…”.
Mấy ngày sau Văn Cao tìm gặp Doãn Tuế, người trợ lý của trung đoàn Pháo binh, trực tiếp theo dõi diễn biến trận đánh tàu chiến của giặc trên toàn tuyến sông Lô và Siêu Hải, người Trung đội trưởng trực tiếp chỉ huy một khẩu đội pháo bắn cháy một tàu chiến của giặc Pháp; hai người dẫn Văn Cao đi dọc theo bờ sông Lô nơi trận đánh xảy ra. Những vạt lau cháy loang lổ hai bờ sông vẫn còn ám khói súng. Qua lời kể của Siêu Hải, toàn cảnh trận đánh hiện ra trong mắt Văn Cao:
… Sông gầm âm vang súng trái phá
Bao rừng thu như bát ngát cười
Dân hoan hô chiến sĩ pháo binh Việt Nam ghi công
Tiếng trái phá quân thù gục chìm
Dòng Lô
Chiến thắng sông Lô đã làm tên tuổi của dòng sông sống mãi với lịch sử của dân tộc. Để cho “Bao dân trong khu mười mơ thành người sông Lô”. Và mãi mãi “Đoàn quân thời chinh chiến ca rằng/ Đây Vonga, đây Dương Tử, đây sông Lô…”. Trường ca sông Lô đã được ra đời trong những ngày Văn Cao “Về trong đêm gió rét” đó và được in trên số báo Văn Nghệ đầu tiên ra tháng 3/ 1948.
Thời gian cứ trôi đi, Văn Cao (người sáng tác ra bản trường ca sông Lô bất tử), Doãn Tuế (người sĩ quan pháo binh góp phần làm nên chiến thắng sông Lô) đều đã trở về cõi vĩnh hằng. Và kỳ lạ thay Văn Cao và Doãn Tuế lại cùng an nghỉ cạnh nhau tại nghĩa trang Mai Dịch (Hà Nội).
Chỉ còn lại dòng sông Lô thanh bình bất tử vẫn mãi chảy giữa “Sông ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau, núi rừng âm u…”.
V.T
(SDB14/09-14)
PHAN THUẬN THẢONhạc chương, theo cách hiểu thông thường, là những bài hát dùng trong nghi lễ ở triều đình, tông miếu. Thể loại ca nhạc nầy có nguồn gốc lâu đời trong văn hóa Trung Hoa cổ đại, là một phần quan trọng trong Nhã nhạc của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Trong quá trình tiếp thu Nhã nhạc từ Trung Hoa, Việt cũng đã tiếp nhận hình thức ca nhạc đặc biệt nầy.
MINH PHƯƠNGCó những ca khúc ấp ủ mãi hàng tháng viết vẫn chưa xong, nhưng cũng có ca khúc chỉ vài tiếng đồng hồ là bật ra ngay.Ca khúc Nắng tháng Ba của nhạc sĩ Trần Hoàn viết trong một đêm thành Huế vừa giải phóng.
NGUYỄN THỤY KHANói đến Bằng Việt, bạn đọc thường hình dung tới một "Bằng Việt nhà thơ", "Bằng Việt dịch thuật". Và có một thời kỳ còn thêm một" Bằng Việt phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội". Nhưng để hình dung ra một "Bằng Việt văn xuôi" thì chắc ít người biết đến. Nhưng đã có một "Bằng Việt văn xuôi" với một tác phẩm viết về "Thần đồng âm nhạc thế giới" W.A. Mozart. Vậy là "Bằng Việt văn xuôi" này trước hết phải là một người nghe nhạc giao hưởng sành điệu. Đọc "Mozart" qua Bằng Việt, ta hoàn toàn thấy rõ lợi thế ấy.
VĨNH PHÚCNhạc lễ (cung đình) là một thể loại của âm nhạc cung đình, bao gồm toàn bộ loại nhạc nghi thức và tế lễ của triều đình. Trong quá khứ, theo một số tư liệu rất ít ỏi còn lại, có lúc, đã được các sử gia phong kiến gọi chung là Nhã nhạc.
NGUYỄN THỤY KHALTS: Một Văn Cao nhạc sĩ, thi sĩ hay hoạ sĩ thì ai cũng đã biết, còn một Văn Cao "hiệp sĩ" trong Đội cảm tử hy sinh vì độc lập nước nhà thì ít người được biết. Nhân kỷ niệm 57 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, đồng thời cũng là dịp hành khúc Tiến quân ca của Văn Cao được cất lên một cách nghiêm trang và thiêng liêng trong tư thế Quốc ca, Sông Hương xin được thông tin thêm về nhạc sĩ Văn Cao với tư cách là "Người công an thân yêu".
BỬU NAM LTS: Nhân giỗ đầu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Sông Hương xin dành chuyên mục này để giới thiệu một số bài viết về anh. Dù cách nhìn, cách đánh giá hiện thời còn có chỗ khác nhau nhưng chắc chắn rằng tên tuổi và nhạc phẩm Trịnh Công Sơn sẽ còn mãi với mai sau.
HỒ VĨNHCa khúc “Ướt mi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn do Nhà xuất bản An Phú-Sài Gòn phát hành năm 1959. Đó là năm tôi cất tiếng khóc chào đời ở một phường xưa Thành Nội Huế.
NGUYỄN KHẮC THÀNHGiuseppe.Verdi sinh ngày 12 tháng 10 năm 1813 tại thị trấn Bosseto thuộc tỉnh Parma, Ý. Cha ông là người canh giữ quán trọ, mẹ làm nghề quay tơ. Khi còn là đứa trẻ lên 3, ông đã sớm thể hiện tài năng âm nhạc của mình.
HOÀNG HUẾNgười nhạc sĩ lão thành từ từ bước ra sân khấu. Mái tóc anh bạc phơ như tóc tiên ông, và đôi mắt thì long lanh sâu thẳm, tưởng chừng chứa hết cuộc đời. Ồ, cuộc đời dài của một nghệ sĩ, dĩ nhiên đan kín những nỗi buồn vui, kể từ cái ngày hơn nửa thế kỷ trước, khi còn là chàng thanh niên trẻ măng, anh cống hiến cho đời bài hát “Dư âm” bất hủ.
Hãy về đây, về đây những ký ức buồnTa muốn nhớ mà không muốn khócLAMARTINE
Ca khúc “Ướt mi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn do Nhà xuất bản An Phú-Sài Gòn phát hành năm 1959, đó là năm tôi cất tiếng khóc chào đời ở một phường xưa Thành Nội Huế.
Sáng 26/3/2008, Học viện Âm nhạc Huế công bố Quyết định thành lập Học viện của Thủ tướng Chính phủ và chính thức ra mắt.