Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - Ảnh: cadn.com.vn
Những yếu tố đó bao giờ cũng có nguồn gốc từ hiện thực khách quan bên ngoài, nó khởi đầu từ thế giới khách quan bên ngoài tức là cuộc sống bên ngoài của nhà thơ. Môi trường đó bao gồm cả thiên nhiên và xã hội: Ta thấy tất cả những yếu tố thơ ca thường là xuất hiện do cuộc sống bên ngoài chứ không phải do một yếu tố thần linh và nhà thơ như một con ong phải làm mật từ những bông hoa có thật mà nó đã hút nhụy. Nhà thơ đã nhặt nhạnh những yếu tố đó trước hết là bằng những giác quan tinh nhạy của mình đó là sự quan sát cuộc sống - Như vậy là những chất liệu của thế giới mà sự quan sát cung cấp cho nhà thơ thường hiện ra dưới dạng hình ảnh, màu sắc, hương vị, âm thanh và có thể có muôn cái không nhìn thấy được bằng mắt nhưng vẫn cảm thấy sự có mặt của nó. Ví dụ: Tiếng vang nào đó của một thế giới xa thẳm chợt hiện đến trong lúc nhà thơ nghe nhìn, do vậy nhà thơ chỉ có thể xây dựng lâu đài của mình bằng nguồn vật tư từ thế giới bên ngoài, không có một thần linh nào mang những thức ăn tinh thần làm quà tặng siêu trần gian cho nhà thơ. Toàn bộ thế giới đã tiếp nhận bằng chính cửa ngõ của giác quan để đi vào tâm hồn nhà thơ (có thể có giác quan thứ 6 - sự linh cảm - nhưng cũng chỉ là giác quan thôi). Nhưng sự quan sát của nhà thơ khác với sự quan sát của một nhà khoa học, hoặc là một người thường. Bởi vì sự quan sát của nhà thơ lựa chọn và thanh lọc để ghi nhận những cái gì thực sự có ý nghĩa của thế giới xung quanh. Điều đó giống như một người quan sát một cái phòng với tất cả những đồ đạc bày biện ở quanh mình nhưng những đồ đạc có ý nghĩa thực dụng thì không thể có cái gì lạ đối với nhà thơ, mà có khi chỉ một bông hoa trên bàn có thể làm cho nhà thơ bắt gặp ở đó một cái gì có ý nghĩa, mang ý nghĩa cuộc đời, sau này sẽ ảnh hưởng đến tâm hồn nhà thơ, cái nhìn của nhà thơ - Đó là cái nhìn của một họa sĩ vẽ tranh tĩnh vật, anh ta chỉ nhặt được trong căn phòng bề bộn của mình những trái cây và những cánh hoa yên lặng. Từ quan sát đến thu nhận, tư liệu của thế giới khách quan được chọn lựa hoàn toàn phụ thuộc vào tính cách của nhà thơ. Vì vậy, để là một nhà thơ trước hết phải là một người có khả năng nhìn và nắm bắt những hiện tượng, có ý nghĩa của môi trường sống (của thiên nhiên, xã hội, con người và nói rộng ra là toàn bộ thời đại của anh ta). Ví dụ: Họa sĩ ấn tượng nổi tiếng Pháp là Mô-nê đã nhìn thấy sương mù Luân Đôn màu đỏ (trong bức tranh của ông ta), trong lúc đó thì tất cả những người dân Luân Đôn từ bao túi vẫn nhìn thấy sương mù của thành phố mình là màu xám. Nhưng sau bức tranh của Mô-nê, hầu hết những người dân Luân Đôn đều nhìn thấy có một màu đỏ bí ẩn trong đáy của sương mù thành phố xưa cũ đó. Cũng vì vậy mà sự quan sát của nhà thơ đồng thời mang tính chất cảm thụ rất mạnh mẽ - Cảm thụ ở đây nghĩa là thu hoạch thế giới đang hiện ra dưới tầm nhìn của mình để chiếm lấy cho riêng mình những gì có sức vang động vào tâm hồi. Ví dụ: Một buổi sáng trên cánh đồng, thì Van Gốc vẽ một cánh đồng lúa chín và trên đó có những con quạ đang bay và đó chính là những bóng đen mãi mãi vẫn ám ảnh tâm hồn Van Gốc. Bản thân tôi, tôi cũng đã đứng trước một cánh đồng như vậy và khi tôi nghe những tiếng chim thì tiếng chim nó vang đến bên tai tôi như một dòng chữ viết trên nền trời và tôi nghĩ đến những dòng thư của một tình bạn thời thơ ấu: Ôi dòng chữ tiếng chim Hiện lên rồi lại xóa Như dòng thư vội vã Viết từ một chân trời Quá trình đưa thế giới vào bên trong: Với những người thường thì những sự kiện và sự việc được ghi nhận hoặc dừng lại ở cửa ngõ các giác quan hoặc là đi vào trong tâm trí của mình, nhưng chỉ một thời gian sau, do sự hững hờ của cái nhìn, của tâm hồn họ, những sự kiện ghi nhận dần dần mất hết ý nghĩa hoặc là tự nó tan biến đi. Riêng với một nhà thơ thì có khả năng tồn giữ những mảnh đời sống, những hình ảnh của thế giới đó ở tận trong sâu thẳm của tâm hồn - và có thể có nhiều lúc người ta không hề nghĩ đến và tưởng như đã quên đi, nhưng mà những hình ảnh phía sau võng mô vẫn tồn tại ở đâu đó trong vô thức tối tăm của mình, giống như những vật quý của cuộc đời bỏ vào một tủ riêng và khóa lại - Đây bắt đầu quá trình nội tâm hóa thế giới khách quan ở tâm hồn một nhà thơ. Quá trình làm việc của vô thức là khó nắm bắt được, nhưng tôi nghĩ rằng quá trình ấy vẫn tiếp tục hoạt động mãnh liệt ngay cả khi người ta ngủ. Và những mẫu quặng của cuộc sống vẫn được nung nấu và tôi luyện không ngừng, và những tứ thơ bắt đầu hình thành giống như những mẫu kim loại lấp lánh. Như vậy qua quá trình nội tâm hóa những vật liệu thô của cuộc sống đã được nhào nặn, tinh lọc, kết hợp để trở thành tư liệu riêng của tâm hồn và đó chính là những dạng đầu tiên của tứ thơ. Như nụ hoa tầm xuân đã tàn theo mùa của nó, nhưng khi nó được nhìn vào và được hái bởi một thi sĩ đồng quê nào đó, bông hoa ấy vẫn còn mãi trong nội tâm của nhà thơ không bao giờ tàn héo, và sau một thời gian lắng sâu nào đó không ai biết thì bông hoa kia lại vụt hiện ra trong ánh sáng ý thức thành ra một bông hoa xanh biếc lạ lùng: Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay Quá trình sống lại của thế giới đã cảm thụ: Đánh thức: tôi muốn trở lại với câu chuyện hoa tầm xuân. Nó nằm trong đáy sâu của tâm hồn nhà thơ, hầu như đã quên lãng trong cuộc sống hàng ngày của anh ta có khi đến vài chục năm, và đột nhiên nó lại hiện ra. Một biến cố nào đó ở thế giới bên ngoài xảy ra và gây cho tâm hồn nhà thơ một nỗi xúc động cao độ để làm sống lại cái hình tượng của bông hoa tầm xuân kia, và chắc chắn biến cố ấy là sự kiện người bạn gái yêu thương của anh ta đã đi lấy chồng. Như vậy rõ ràng là phải có một biến động, một yếu tố tác động nào đó của cuộc sống để đánh thức cả một tâm trạng đang lắng ngủ, giống như hòn sỏi ném vào mặt hồ đang yên tĩnh. Theo tôi nghĩ cái yếu tố tác động để đánh thức là hết sức quan trọng và cũng mang đầy tính chất ngẫu nhiên trong quá trình sáng tạo của nhà thơ. Có thể là một biến cố trong đời sống tình cảm của con người hoặc thường khi chỉ là một vật tình cờ, nhỏ bé, lẻ loi, rất có thể nhìn lướt qua rồi bỏ đi dưới con mắt người khác, ví dụ như một chiếc lá khô mùa thu rơi dưới bước chân. Nhưng đối với nhà thơ thì chiếc lá vàng rơi nhẹ ấy lại mang tất cả sức nặng của vũ trụ. Nó đến với nhà thơ như một âm thanh mang tất cả nỗi xao xuyến của tâm hồn, và một khi đã rơi vào lòng người thì nó trở thành ngón tay thần kỳ của một người nghệ sĩ nào không biết đang nhấn lên một phím ngà của chiếc dương cầm tâm hồn, và lập tức như một chủ âm, âm thanh ấy làm dấy lên giai điệu của một bản xô-nát: Sự ngân rung của nội tâm nhà thơ vào khoảnh khắc ấy mang đầy nhạc tính và ta có thể gọi đó là giai điệu của tâm trạng thi ca, từ đó sẽ xuất hiện mô-típ chính của bài thơ. Xin dẫn chứng bằng một kinh nghiệm sáng tác của riêng tôi. Một buổi sáng, tôi nghe một người bạn đọc một bài thơ thiếu nhi có hai từ “màu ngà”, từ đó hai từ ấy cứ vướng vít trong tâm trí tôi, không lúc nào dứt. Âm thanh có tính chất nội dung của hai từ ấy gợi cho tôi nghĩ đến vẻ đẹp tuổi thơ - sự trong sáng của tâm hồn - cái nguyên vẹn, tinh khôi của trời đất thuở ban đầu và tự nhiên tôi nghĩ đến cái trứng chim và tôi không bao giờ rời khỏi hình ảnh quả trứng, quả trứng ấy luôn đè nặng lên tâm trí tôi cho đến lúc tôi làm xong bài “Cái tổ chim”. Bài thơ có đoạn: Một quả trứng màu ngà Như sự sống ngân nga Dâng lên trong chiếc tổ… Thế giới hiện ra: Tâm trạng thi ca một khi đã dấy lên nó làm nặng trĩu tâm hồn như một tình yêu chưa đạt tới. Nó luôn luôn kêu gọi, thúc giục, quấn quít. Từ đó, nhà thơ cảm thấy cái nhu cầu cấp thiết phải giải phóng nội tâm của mình bằng cách thúc đẩy cho xuất hiện toàn bộ bản xô-nát đã dấy lên. Đây là quá trình hoạt động căng thẳng của “bộ máy bên trong”, trong đó, hình như ngoài ý muốn của nhà thơ nó tập trung tất cả năng lực của hồi ức, trí tưởng tượng và sức nhập thân vào đối tượng. Ở đây phải nói đến sức mạnh kỳ lạ của hồi ức: có thể từ một hình ảnh xa xôi và hầu như không đáng kể, và cứ thế nhiều nét khác được lôi cuốn xuất hiện, từng tí một cho đến lúc hồi ức dựng lên được cả một bức tranh toàn vẹn. Tuy nhiên hồi ức không phải là sự đồ lại nguyên bản những ghi chép của trí nhớ; hoạt động của hồi ức mang đầy tính sáng tạo bằng cách cải biên, cách điệu hóa trí nhớ, bằng cách tổ hợp các yếu tố rời rạc của trí nhớ để thành ra một cấu trúc toàn vẹn mang một ý nghĩa mới. Và người ta hiểu rằng: Cùng với trí nhớ, đấy là công lao của trí tưởng tượng. Như ta đã biết, từ một bông hoa dại, thoáng gặp ngoài đồng, hồi ức và trí tưởng tượng của nhà thơ đã xây dựng nên một bức tranh toàn vẹn của thế giới tình cảm mang tính nhân loại; bằng năng lực sáng tạo tổng hợp này, nhà thơ ca dao đã nối kết biết bao nhiêu kinh nghiệm sống riêng lẽ và hình như nằm rời rạc ở đâu đó trong những góc tối của tâm hồn, trong đó có mùi hương hoa bưởi của những đêm hẹn hò, luống cà đầy kỷ niệm, nỗi đau của tình yêu đã mất, và tất cả đó được cấu trúc chặt chẽ vây quanh màu xanh biếc đến quặn lòng của nụ hoa tầm xuân mới nở. Không chỉ riêng một kỷ niệm đời người, mà nhiều khi còn là một bức tranh lớn lao của lịch sử, của những người cùng thời cũng có thể xuất hiện từ một đơn vị nhỏ của hồi ức như vậy. Tuổi nhỏ tôi thường hay gõ lên những mặt trống, bất kể là trống gì - ngày ấy tôi chỉ thấy rộn ràng trong lòng những tình cảm tươi vui. Sau này lớn lên, khi đến đền Hùng, tôi được vào trong bảo tàng - và gặp cái trống đồng - khi tay tôi chạm đến mặt trống, tiếng ngân của trống đồng làm tôi rung động, xao xuyến. Tôi có cảm giác như mình thành người của thời xa xưa đang đứng gõ trống đồng. Và lúc đó có một mô-típ chính của bài thơ đã đến: Khi tay chạm, trống đồng ngân Sững sờ tôi ngỡ mình thành người xưa Và hai câu thơ ấy theo đuổi tôi suốt ba năm trời, cho đến lúc trái cây đã chín trong nội tâm, thì toàn bộ lịch sử của đất nước bốn nghìn năm vụt hiện ra trong tôi, bài thơ như một thực thể tự sinh dưới ngòi bút của tôi: … Từ đây đến đấy xa thay Đầu kia ai đứng cuối này là tôi Bao nhiêu thời đại qua rồi Chỉ còn vọng giữa đất trời tiếng ngân v.v… Điều cần nhấn mạnh sau cùng là cả hồi ức và tưởng tượng, cả cảm tính và lý tính, cả âm điệu và ngôn từ v.v…, tất cả đó vẫn sẽ không bao giờ đưa người ta đến thi ca chân thực, nếu ở nhà thơ không có cái khả năng tổng hợp và linh mẫn nhất của tâm hồn, mà người ta vẫn thường gọi là “trái tim”. Một nhà thơ chân chính trước tiên và sau cùng, phải có một trái tim chân chính, trái tim nhạy cảm trước nỗi đau và hạnh phúc, trái tim biết căm ghét và khát vọng trong sáng, và luôn luôn mang trong nó nỗi yêu thương vô tận đối với con người và cuộc sống. Về cả đạo đức và thẩm mỹ học chúng ta gọi đấy chính nhân sinh quan mang tính chất nhân đạo chủ nghĩa của nhà thơ. Có người bạn hỏi tôi: Bài hay nhất của chị là bài thơ nào? Tôi không thể trả lời được. Bởi vì thơ cũng như tình yêu, thật khó nói. Và những tứ thơ bao giờ cũng đòi hỏi ta dâng cho nó mối tình đầu thiết tha, trong sáng, day dứt, xao xuyến, trăn trở, nồng cháy… Hà Nội 1982 Huế 1983 L.T.M.D (4/12-83) |
Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...
Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.
TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.
LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.
PHONG LÊĐó là: 1. Từ sự phân cách, chia đôi của hai thế giới - địch và ta, chuyển sang hội nhập, cộng sinh, có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa. 2. Từ cộng đồng chuyển sang cá nhân, cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển, nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng. Và 3. Từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu, hội nhập với khu vực và quốc tế, với sự lưu tâm hoặc cảnh báo: trong đi tắt, đón đầu mà không được đứt gẫy với lịch sử.
ĐỖ HẢI NINH(Nhân đọc tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Nxb Phụ Nữ, H, 2009; tác phẩm nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2009)
PHẠM QUANG TRUNGHiện nay, vấn đề đổi mới thi pháp đang được nhiều người cầm bút quan tâm. Xin ghi lại cuộc trao đổi mới đây giữa tôi (PQT) với một nhà văn (NV) về vấn đề bức thiết này.
(Theo bách khoa thần học New Catholie)THẨM GIÁ PHÊ BÌNH Việc thiết định giá trị phán đoán trong phê bình đã được kiểm thảo một cách nghiêm khắc trong thế kỷ XX. Chẳng hạn, người ta cho rằng phê bình đã vượt lên cả tầm vóc “viên đá thử vàng” trong việc thẩm giá hội họa để dẫn dắt thị hiếu thưởng thức hội họa của công chúng.
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.
ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)
HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.
ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".
ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…
HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.
HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.
HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết) (tiếp Sông Hương số 248)
Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .
Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.
Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.
HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.