Vài nét quanh các bức phù điêu ở Huế

15:14 05/03/2013

TRẦN LÂM BIỀN

"Mỹ thuật thế kỷ 19 ở Việt Nam là lai căng"?! Là sản phẩm của một triều đại phản động. "Trang trí Nguyễn là vênh váo"?! Là nghệ thuật cung đình xa cách nhân dân...!?

Tranh vẽ Cửu đỉnh và Thế miếu trong tận san Những người bạn Cố đô Huế no.1 năm 1914 (BAVH 1914) - Ảnh: wiki

Đã một thời dài, những ngôn từ mòn mỏi này, như mặc nhiên được công nhận, được coi như "định lý" mà các "học trò" mới bước vào nghề phải thuộc cái thứ "định lý" vượt lên trên khoa học này, dẫn đến định kiến sai lầm, khiến một số người đã vội phủ nhận, bài bác nền nghệ thuật Nguyễn... Đó là một thời. Nhưng, cái thời đã qua ấy, có lúc vẫn còn níu chân chúng ta, tạo nên sự dè dặt đôi khi quá mức.

Gần đây chúng tôi buộc phải khảo sát lại các di tích Nguyễn, một cách có hệ thống hơn, ở nhiều nơi trên đất Bắc, rồi phải nhiều lần vào thăm xứ Huế... và cuối cùng mới vượt được chính mình để khẳng định rằng: Mỹ thuật Nguyễn, có cái gì đó, không như người ta đã tưởng.

Điều trước hết phải công nhận rằng: có một nền mỹ thuật Nguyễn đủ tư cách riêng biệt, đại diện cho mỹ thuật dân tộc của một thời, về cơ bản nó không "giống" trước, không "giống" sau, không phải Trung Hoa và cũng không phải bị Âu hóa.

Điều thứ hai phải công nhận là: nền mỹ thuật này có mặt trên hầu như tất cả các di tích của thế kỷ 19 ở nước ta, dù các di tích đó ở các tỉnh biên giới xa xôi phía bắc, phía tây, hay ở các tỉnh phía nam. Chúng có mặt đồng bộ ở các di tích của triều đình lẫn dân dã, ở các đình chùa làng, cả nhà thờ hộ bình dân... Như thế mỹ thuật Nguyễn đã được nhân dân ta chấp nhận, nó có chỗ đứng nhất định trong nhận thức thẩm mỹ của dân tộc.

Điều thứ ba phải công nhận là: mỹ thuật Nguyễn đã phản ánh được nhiều mặt về lịch sử và xã hội mà nó chỉ theo. Trong những khía cạnh tưởng như "tiêu cực" nó vẫn "lấp ló" nhiều ý nghĩa tích cực lý tính...

Trở lại Huế, với những di tích cung đình, những cung điện và lăng tẩm... Người phương xa, qua sách vở, cứ tưởng rằng nó xa cách, bởi sự sao chép của Trung Hoa, hay bởi nó gắn với tầng lớp thống trị! Nhưng rồi, khi đứng trước điện Thái Hòa, trước Thế Miếu... chúng ta không thấy bị nhỏ đi, cả về thể xác lẫn thân phận, như trước Thiên An Môn. Mà, một cái gì đó, phôi pha, làm dịu lòng người viễn khách.

Lần theo các kiến trúc trong Đại Nội, rồi từ các lăng Gia Long tới lăng Khải Định, các chùa, các nhà thờ của dòng họ… một điểm nổi bật đáng quan tâm là phần trang trí trên các bức phù điêu. Nếu như đứng về niên đại mà nói, thì trang trí Huế có thể coi như có từ giữa thế kỷ 17, với những đề tài khá đậm chất dân gian và thống nhất một phong cách với nền mỹ thuật chung của dân tộc. Đó là các vạc. Chúng ta lại còn thấy tấm bia đời Cảnh Trị thứ 5 (1667), nay đặt tại Bảo Tàng Khải Định, rồi khánh đồng, chuông đồng và bia ở chùa Thiên Mụ, đó là một số hiện vật có trước khi nhà Nguyễn xây dựng vương triều. Trang trí của chúng ít nhiều đã phản ánh tư tưởng của nhà chúa, một xu thế quy tụ nhân tài quanh chúa (khánh chùa Thiên Mụ), đề cao và nói lên quyền lực bao trùm của chúa (chuông Thiên Mụ)... Ở đây chúng tôi muốn tập trung hơn vào trang trí dưới thời nhà Nguyễn xây dựng vương triều.
 

Họa tiết chim hạc trên Anh đỉnh (cửu đỉnh Huế) - Ảnh: wiki


(Về hình thức, hiện tượng chia ô -kiểu ô hộc) trong trang trí cổ ở nước ta đã có từ khá sớm. Nếu trong thời đồ đồng người ta thường trang trí thành dải, thì từ thời Lý hiện tượng chia ô đã xuất hiện. Ô trang trí đóng khung các đề tài lại, nó đã phá vỡ chu trình uyển chuyển khép kín, để mở đầu cho một phong cách mới. Cho tới giữa thế kỷ 17, bên cạnh những thành công dần của nghệ thuật chia ô, thì vẫn còn nhiều ô biểu hiện sự thiếu chặt chẽ của bố cục, ảnh hưởng tới đề tài (ít nhiều điều đó còn thấy ở vạc đồng Huế). Khoảng từ giữa thế kỷ 17, lác đác các ô trang trí với các đường gờ nổi lớn dày đã đạt được hiệu quả nghệ thuật cao, tạo được độ sâu cần thiết cho mảng chạm, thêm sự đậm nhạt cho đề tài… (nhang án gỗ chùa Bút Tháp - Hà Bắc). Nhưng phải tới thế kỷ 19, hiện tượng chia ô mới tới đỉnh của nó, về cả nghệ thuật và sự phổ biến. Đó là một điển hình về trang trí của Huế. Trên một vài kiến trúc Huế, nhiều ô hộc không hề có mẫu hình trang trí trong lòng, nhưng chỉ với các ô vuông, chữ nhật, tam giác xếp ken nhau theo một trật tự nào đó và các đường gờ phân chia nổi lớn, đã đủ tư cách là những mảng nghệ thuật, làm tôn giá trị của kiến trúc. Rồi các ô "nhất thi nhất hoa" dẫn chúng ta đi vòng quanh lòng nhà. Ô hộc xuất hiện khắp nơi, nhưng trong một chừng mực nào đó những ô trên các cửa xây bằng gạch của Huế có thể coi như đạt được một hiệu quả rất cao về mỹ thuật. Cái giá trị nổi bật của chiếc cổng này là tính chất "điêu khắc" của các ô hộc. Bằng vôi vữa, các đường gờ chia ô phải làm nổi lớn, cộng với các đề tài trang trí mang hình thức nửa phù điêu, nửa tượng tròn, đậm tính khái quát, đồng thời ô vuông, ô chữ nhật xếp ken nhau... tất cả hợp lại như cho chúng ta một chỉnh thể viên mãn. Tuy nhiên, trang trí Huế không chỉ là ô hộc, mà rất nhiều bức phù điêu theo hình thức truyền thống vẫn còn phổ biến. Ở đây điều đáng quan tâm hơn cả, mà chúng tôi muốn đề cập tới, là một số điểm về nội dung của đề tài trong các bức phù điêu. Trang trí ở kiến trúc Huế không nhiều như ở các kiến trúc ngoài Bắc và số lượng đề tài cũng vừa đủ. Người ta có thể thấy chúng tập trung vào bộ tứ linh: rồng, phượng, lân, rùa, vào một số cây cỏ tượng trưng cho bốn mùa và những cây thiêng truyền thống, rồi các hệ thống bát bửu và một số biểu tượng vốn đã có hay học của Trung Hoa... Trong chạm khắc gỗ, ngoài tượng tròn, thì ở Huế, vào thế kỷ 19, hiện nay chúng tôi chưa gặp một bức chạm nào có hình con người. Tuy nhiên, chỉ với những đề tài như kể trên, đã có rất nhiều vấn đề khiến chúng ta phải quan tâm.

Một là: Huế là nơi hội tụ của nền nghệ thuật phù điêu thời Nguyễn, đồng thời nó cũng như một "ngọn đèn" để tỏa sáng ra các nơi. Tất nhiên, sự giao lưu hữu thức với nghệ thuật Trung Hoa được coi như một lẽ bình thường. Các đề tài trang trí của Huế mang nhiều nét điển hình, nó đã kế thừa được nhiều nét của thời kỳ trước, như ở giá súng thần công sau kỳ đài, hoặc ở các hoa cỏ mang ý nghĩa cầu phúc của cư dân nông nghiệp nước ta... Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nghệ thuật khảm sành sứ, khảm trai, khảm ngà... đã đạt tới đỉnh cao, trong khi đó ở các nơi khác đôi khi còn thấp (nhất là nghề khảm sành sứ).

Hai là: Đi cụ thể vào các đề tài, chúng ta thấy hình như có một hiện tượng gẫy mạch truyền thống vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ 19. Đó cũng là một hiện tượng chung trên toàn quốc. Rõ ràng là nhiều đề tài của nước ngoài thuộc lĩnh vực cây cỏ, chim muông, hoa quả mang ý nghĩa biểu tượng, rồi các tích truyện cổ... mà trước đây hiếm thấy trong tạo hình, thì nay đã gặp nhiều. Điều đáng quan tâm là các đề tài đó đã được Việt hóa, để mang nét đẹp mộc mạc, tự nhiên, phảng phất nét đẹp dân gian. Qua bối cảnh lịch sử chúng ta có thể hiểu rõ hơn về điều này. Theo sử sách thì vua Minh Mạng đã cho người sang Trung Hoa học mẫu kiến trúc và trang trí, thời kỳ này Nho giáo được đề cao. Nhưng thực ra trên toàn quốc (phần nào cả ở Huế) sản phẩm còn để lại ở thời Minh Mạng không nhiều) mà chủ yếu từ cuối thế kỷ 19 về sau. Những sản phẩm này như kế tục bước đi từ thời Minh Mạng... Sự xâm lược của thực dân Pháp đã đẩy dân tộc ta vào một thời kỳ đen tối mới. Trong khi đó với phương thức sản xuất mới, trên chính trường hạng nho sĩ bị hắt ra ngoài lề. Số phận đã đẩy một bộ phận lớn nho sĩ trở về với cuộc sống thôn dã, thành trí thức của làng và họ đã chở một cách ồ ạt hơn thứ đạo đức Nho giáo vào nông thôn. Nhưng mặt nào họ lại gần gũi và đồng cảm với nhân dân hơn. Điều đó khiến cho, trước thời có Đảng, tư tưởng Nho giáo như đã trở thành một trong những hệ tư tưởng gần gũi với ý chí cứu nước, có thể mở hội nhập với lòng yêu nước để chống lại thứ tư tưởng của bọn xâm lược. Đó cũng là một điều kiện để nghệ thuật từ quê hương Nho giáo được tiếp nhận một cách dễ dàng hơn vào xã hội Việt, để rồi nhanh chóng được Việt hóa, góp phần chống lại văn hóa của bọn thực dân.

Ba là: Song song với nền mỹ thuật chịu ảnh hưởng nhiều từ phương Bắc, thì yếu tố phương Nam và nhiều giá trị truyền thống vẫn tồn tại ở các vị trí trung tâm. Chúng ta có thể kể tới bóng dáng con Makara (một loài thủy quái của huyền thoại Ấn Độ và Đông Nam Á) mà đầu đã được rồng hóa phần nào, không có thân mà chỉ có đuôi, nay vẫn đứng vững trên bờ nóc nhiều mái nhà. Trong trang trí gỗ và đá thì đầy hổ phù (Râhu), mang phong cách tương tự như của người Khơ me hoặc Chàm, nó gắn với sự mong cầu về nguồn hạnh phúc no đủ. Hổ phù (còn gọi mặt rả) xuất hiện trong tạo hình Huế dưới nhiều dạng, khi thì được nhìn chính diện ở giữa trán bia, khi mang tư cách lá hoa hoặc hình triện hóa với rồng chầu hai bên, khi ở góc bệ kia, khi thì được lắp thêm một cái thân "rắn" để trở thành rồng mặt hổ phù... (còn gọi: rồng ngang). Kiểu rồng nầy đã có từ giữa thế kỷ 17 (nhang án chùa Thầy - Hà Sơn Bình), nhưng trên đất Bắc vẫn rất hiếm. Tới thế kỷ 19 nó gắn vào các di vật liên quan với vua. Và, như thế nó trở thành một điển hình của mỹ thuật Nguyễn tại Huế. Cùng với hổ phù và nhiều con vật linh khác thì các cây cỏ truyền thống, mang ý nghĩa dân gian, vẫn tồn tại, mặc dù về hình thức đã có biến đổi ít nhiều. Trong dạng cây cỏ, có một loại cây thiêng đôi khi vẫn còn được giữ lại ở những vị trí quan trọng, như tại chính ngai vàng - đó là cây "Thiên mệnh", một loại cây "vũ trụ" (linh thiêng) gắn với vũ trụ quan của người xưa, cây này chứa cái "chất sống" để đem đến cho đời nguồn hạnh phúc. Cây "Thiên mệnh" mang hình thức như cây sứ (cây đại) không có lá hiện nay đã khẳng định xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ 14, phổ biến vào giai đoạn nghệ thuật dân gian phát triển (thế kỷ 16 và 17) - sự xuất hiện của loại cây này ở ngai vàng Huế hẳn phải mang nhiều ý nghĩa...

Bốn là: Nền nghệ thuật tạo hình Huế, nhất là ở Phù Điêu, vào khoảng cuối thế kỷ 19 và mấy chục năm đầu của thế kỷ 20, thực sự đã có những bước phát triển mới. Loại trừ một số mặt lai căng, học đòi không tới nơi tới chốn nền nghệ thuật phương Tây, thì sản phẩm chạm khắc và khảm sành sứ.... ở giai đoạn này đã đạt được những thành quả nhất định, cả về nghệ thuật lẫn kỹ thuật. Mở rộng ra, có thể nhận thấy hiện tượng này cũng được phổ biến ở nhiều nơi khác. Một vài dẫn chứng cụ thể, như các mảng chạm khá điển hình ở Hưng Miếu, những hình bát bửu được chạm riêng, khá trau chuốt, rồi gắn bằng sơn vào các kiến trúc, những mảng khảm sành sứ tuyệt tác ở lăng Khải Định, những đồ khảm sừng khảm trai gắn vào nhiều kiến trúc, rồi nhiều hình người theo tích truyện được chạm tinh xảo (nhà thờ Tôn Thất Hân)...

Điểm qua vài vấn đề quanh các bức phù điêu ở Huế, không có nghĩa là bàn về các mặt nghệ thuật, kỹ thuật và ý nghĩa của tất cả các dạng phù điêu với đề tài của nó, mà chủ yếu ở đây, chúng tôi muốn dần dần, bằng vào kết quả từng bước của công tác nghiên cứu để mong đặt lại cho đúng vị trí của nền mỹ thuật Nguyễn trong toàn bộ nền mỹ thuật dân tộc.

Trên đây chỉ là một vài ý nghĩ qua những đợt khảo sát thực địa. Chúng tôi mong trong một dịp khác, sẽ được quay trở lại các vấn đề này một cách đầy đủ hơn.

12-1986
T.L.B.
Viện Mỹ Thuật Việt Nam
(SH25/6-87)









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN BÌNH LAN

    Trong nghệ thuật Việt Nam hiện đại, hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh được nhiều nghệ sĩ trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật khai thác, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị cao dưới nhiều góc nhìn và nhiều phương pháp sáng tác khác nhau, vì thế, để có những cái nhìn mới và để có những tác phẩm lạ về hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh là một đề tài khó đối với nghệ sĩ hiện nay.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Mỹ cảm của một tờ báo hay một tờ tạp chí xuất phát từ đâu? Yếu tố quyết định mỹ cảm của người đọc đối với một tờ báo hay một tờ tạp chí nào đó phải chăng luôn khi nào cũng gắn với cái bìa của nó hay với một thành phần khác của nó hay không?

  • KHẢ HÂN

    “Lại về lại 2018” là triển lãm do Tạp chí Sông Hương tổ chức trong dịp Festival Huế 2018. Triển lãm với sự tham gia của các họa sĩ, nhà điêu khắc đang sinh sống tại Huế, tại thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Nam,… và những người bạn yêu Huế.

  • KHẢ HÂN

    “Một thoáng Tam Giang” là triển lãm lần thứ ba này của nhóm các họa sĩ trẻ Huế Ta được ánh xạ một cách tài tình qua những khúc ngẫu hứng ngân lên từ phá Tam Giang.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Trong những ngày cuối năm 2017, tại Trung tâm nghệ thuật Lê Bá Đảng & Điềm Phùng Thị đã diễn ra cuộc triển lãm mỹ thuật với chủ đề "Hội Ngộ".

  • LTS: 9 giờ sáng 17/7/2017, họa sĩ Vĩnh Phối đã trút hơi thở cuối cùng tại nhà riêng bên bờ sông Đông Ba - thành phố Huế, sau một thời gian sống chung với căn bệnh ung thư.

  • KHẢ HÂN

    Phác họa nên một bức chân dung, ở đó, hình thể trong tranh có thể tự mình truyền tải một thứ ngôn ngữ của riêng nó,…

  • THIÊN HÀ

    Một sự kiện văn hóa đáng lưu tâm trong kỳ Festival nghề truyền thống Huế 2017 là lễ hội áo dài với chủ đề Hội họa Huế và Áo dài, được diễn ra trên cầu Trường Tiền, bắt đầu Iúc 20 giờ đêm 30/4.

  • Tôn Thất Đào được các thế hệ họa sĩ tài hoa mệnh danh là một họa sĩ bậc thầy của Huế.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Họa sĩ Nguyễn Văn Tuyên không có xưởng vẽ, không treo tranh quanh nhà như nhiều họa sĩ khác.

  • AN PHÚ

    Hồi Cố - là tên của phòng triển lãm mỹ thuật trưng bày tác phẩm của các họa sĩ đã có nhiều đóng góp cho nền Mỹ thuật Thừa Thiên Huế và sự phát triển của tổ chức Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế.

  • TUỆ NGỌC

    Thầm lặng dường như là phong cách của họa sĩ trẻ Hoàng Đăng Khanh. Sự thầm lặng đó thể hiện trong nghệ thuật và cả trong cách sống của anh với cuộc đời.

  • TUỆ NGỌC

    Hội họa nói riêng và nghệ thuật thị giác nói chung của Huế đã có một thời kỳ rực rỡ với những tên tuổi cống hiến cho mảnh đất giàu văn hóa này như Tôn Thất Đào, Phạm Đăng Trí, Bửu Chỉ, Điềm Phùng Thị, Lê Bá Đảng, Đinh Cường, Hoàng Đăng Nhuận, Vĩnh Phối, Nguyễn Văn Tuyên…

  • Đến hẹn lại lên, các họa sĩ yêu Huế từ TP HCM, Đà Nẵng, Huế lại về bày tranh tại Tạp chí Sông Hương hưởng ứng Festival Huế 2016. Ngoài ba họa sỹ thân thương: Kim Long, Trương Đình Quế và Nguyễn Tuấn đã đi xa, những người còn ở lại vẫn tiếp tục đồng hành cuộc chơi của Nhóm “LẠI VỀ LẠI” đã được khởi động từ 2008. Phòng tranh “LẠI VỀ LẠI 2016” lần này, đã có thêm những tên tuổi mới.
    Sông Hương xin giới thiệu đến quý bạn đọc các tác giả tham gia phòng triển lãm tranh “LẠI VỀ LẠI 2016”, sẽ khai mạc tại Tạp chí Sông Hương từ 27/4/ tới đây.

  • ĐẶNG MẬU TỰU  

    Một sáng giữa tháng 2, tình cờ tôi được nhóm họa sĩ trẻ nội thành mời uống cà phê ở đường Thạch Hãn. Hôm ấy có khá đông anh em nhóm trẻ ở cà phê Rider, lâu mới gặp, chuyện trò rôm rả trên nền tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly quen thuộc cùng những ca khúc Trịnh Công Sơn.

  • TUỆ NGỌC

  • Họa sĩ Võ Xuân Huy sinh năm 1970, học Đại học Nghệ thuật Huế và sau đó trở thành giảng viên tại trường. Sự đột ngột ra đi của anh vào ngày 15/3 vừa rồi đã để lại khoảng trống đầy đau thương và ám ảnh trong lòng bạn bè; cũng gần như một thông điệp về cõi người vô thường dưới bầu trời quá rộng mà ở đó sự thành công chỉ đến khi năng lượng của kẻ sáng tạo được thắp sáng đổ bóng cả vào lòng đất tăm tối.
    Bài viết của Hoàng Diệp Lạc, thơ của Tịnh Thy và Phùng Tấn Đông là nén tâm nhang mà Sông Hương muốn gửi đến độc giả. 

  • HẠ NGUYÊN

    Trong cuộc đời, cái đánh thức ký ức của ta đến tận cùng sâu thẳm nhất, đó chỉ có thể là mưa.