Vài cảm nhận giá trị minh triết của Đông Kinh Nghĩa Thục

14:44 16/10/2008
NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

Chỉ tồn tại 9 tháng nhưng hoạt động của Đông Kinh Nghĩa Thục được xem là cương lĩnh chấn hưng dân tộc, mở đầu thời kỳ hiện đại của đất nước ta. 100 năm đã trôi qua, lật lại những trang viết cũ,chúng ta vẫn tìm thấy ở đó những lời tâm huyết, những tình cảm thiết tha và những dự báo rất sắc sảo của tiền nhân. Cũ mà rất mới. Nhân kỷ niệm 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục, Sông Hương trân trọng giới thiệu bài viết của Nguyễn Khắc Mai với một cách nhìn minh triết về phong trào này.

Minh Triết, như tôi hiểu là những tư tưởng và rộng lớn hơn là những giá trị văn hoá, có tính khái quát và phổ quát, ý nghĩa rộng, trường tồn có thể đem ứng dụng cho nhiều hệ thống. Chúng đạt tới tính chất của những giá trị xã hội và nhân sinh phổ quát. Minh Triết tham gia vào đời sống xã hội giống như chất tuỷ của một sinh vật. Ta gọi đó là cốt tuỷ, là tinh tuý của một hệ thống xã hội.
Đông Kinh Nghĩa Thục trăm năm trước xuất hiện như một ánh sao băng trong lịch sử hiện đại Việt , một đi không trở lại. Hình ảnh của nó, ánh sáng của nó, hiện tượng của nó ta chỉ ghi nhận được trong khoảnh khắc, nhưng năng lượng nó toả ra thì đã lan truyền mãi trong vũ trụ. Cái năng lượng mà ta cần và phải tiếp nhận từ Đông Kinh Nghĩa Thục chính là những Minh Triết mà những con người thuở ấy đã tạo ra.

1. Minh Triết: “Tuyết Quốc Sỉ” “Hóa Dân Cường Quốc”.
Đông Kinh Nghĩa Thục đưa ra những quan niệm: Quốc gia - Dân tộc - Quốc dân và lòng yêu nước mà ngày nay vẫn tồn tại như những giá trị cập nhật, mà bất cứ ai muốn xứng đáng, không phải xấu hổ với 4 thành tố ấy đều phải học hỏi chiêm nghiệm và tìm cách hành động. Nói hành động là nói cả sự mở mang kiến thức để phá vỡ cái u tối của mình.
Lòng yêu nước trong Đông Kinh Nghĩa Thục thể hiện thành 3 điều:
a. Lo nghĩ về vận nước. “Than ôi! Lo không gì hơn mất nước, buồn không gì hơn thân bị nhục”.
b. Thấy sỉ nhục dân mất nước, thân nô lệ, dân tộc và xã hội yếu hèn, lạc hậu. Các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục gọi là “Tuyết Quốc Sĩ”, làm sạch (Tuyết) nỗi nhục nô lệ, yếu hèn và lạc hậu.
c. Quyết liệt hành động để “ Hoá Dân Cường Quốc”. Đó là một triết lý. Từ đó mà có nhiều chủ trương. Cái triết lý “Hoá Cường” ấy vừa cổ kính vừa cập nhật. Cái quan niệm phải chuyển hoá quốc gia, phải làm cho tiến hoá dân tộc là rất mới mẻ vào trăm năm trước, mà hôm nay nghiệm ra cuối cùng cũng phải “đổi mới". Điều thú vị là nhiều chủ trương đổi mới hôm nay chúng ta đã thấy được đề cập từ Đông Kinh Nghĩa Thục. Để có thể “Hoá Cường” trước hết phải có Độc lập. Để tranh lại và giữ gìn độc lập “Nước phải mạnh”. Nhưng “Nước mạnh hay yếu là do Dân”; “Dân mạnh thì nước yếu có thể chuyển thành mạnh, và mạnh lâu dài”. Phải đổi mới cái tư cách của người dân. Lần đầu tiên, chắc là như thế, Đông Kinh Nghĩa Thục đưa ra quan niệm Quốc dân là một quan niệm tiên phong, đi trước thời đại cả 100 năm. Quốc dân chính là cái lõi, cái xương sống của nhân cách quốc gia, dân tộc. Quốc dân phải là những người “rõ cái lý tương quan giữa dân và nước… biết vị trí của họ trong xã hội… để gây ý thức ái quốc, ái quần, bồi dưỡng tài năng tự trị, tự lập”. “Muốn nước được bình trị mà mong ở vua hiền tướng giỏi thì không bằng mong ở dân mạnh”. Ngày nay chúng ta thừa kế tư duy ấy đã ghi được vào Hiến pháp một số điều cơ bản về nhân cách và quyền của Quốc dân (công dân). Không thể nói rằng cái lý tưởng xây dựng Quốc dân với tư cách là “cường dân” hoàn chỉnh như Đông Kinh Nghĩa Thục mong ước, chúng ta bọn hậu thế không làm được gì, nhưng để đạt cho được cái Minh Triết Quốc dân ấy còn phải sửa đổi và làm nhiều hơn nữa. Quan niệm Quốc dân “Dân mạnh” của Đông Kinh Nghĩa Thục quả thật sắc sảo, cấp tiến có khi vượt xa với quan niệm nhân dân mơ hồ và dân giàu chỉ nói được một khía cạnh.  Quan niệm dân mạnh của Đông Kinh Nghĩa Thục bao gồm “mạnh về trí tuệ học vấn năng lực khoa học, công nghệ và thực nghiệp, mạnh về phẩm chất đạo đức yêu nước, bác ái, tiến thủ cạnh tranh, biết vị trí của mình trong xã hội, mạnh về ý thức thực quyền, không nhất nhất trông chờ chính phủ, bởi vì “quan cũng chỉ là một người dân nắm chính quyền”; thiết thực nhất là mạnh vì có sản nghiệp và biết làm chủ sản nghiệp”.

Triết lý “Hoá Dân, Cường Quốc” của Đông Kinh Nghĩa Thục đặt ra một loạt vấn đề có tính hệ thống từ xây dựng một chính thể dân chủ của Việt Nam, do Việt Nam, vì Việt Nam, một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam (mà năm 1945 Hồ Chí Minh đã cảm nhận và nói ra). Một nền kinh tế biết coi trọng và phát triển cái vốn (tư bản) coi trọng nông, công, thương, coi trọng luật pháp để bảo vệ tài sản, bảo vệ hoạt động công thương… coi trọng phát huy mọi phương thức, phương tiện hiện đại để phát triển và quản lý kinh tế.
“Hoá Dân Cường Quốc” để đạt tới văn minh và tiến bộ, để có sức mạnh nội lực mà giữ gìn độc lập. “Hãy làm cho nước Nam của ta càng văn minh kế ấy là kế của nước, cũng tức là của bản thân mình”. Bởi vì “không thể như trăm năm trước nữa, cứ đóng cửa mà trị dân, dù không tiến bộ cũng có thể ngồi mà giữ nước”.

2. Minh Triết về “Chủ nghĩa mở trí khôn cho nhân dân”.
a. Để “Hoá Dân Cường Quốc”, giáo dục phải là giải pháp hàng đầu. 100 năm trước Đông Kinh Nghĩa Thục đã khẳng định. Nay học theo Minh Triết ấy mà nêu khẩu hiệu: Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đem tư tưởng của người xưa kết hợp với kiến thức hiện đại để làm cho thật sự có kết quả.
b. Phải phổ cập giáo dục “làm cho cả nước văn minh thì phải có giáo dục phổ cập”. “Giáo dục phổ cập là cả nước không một người nào không được đi học”.
c. Mục tiêu giáo dục “theo lý chung thì học là để có ích cho bản thân mình và cho quốc gia, xã hội. Có ba điều, một là học vệ sinh, tức là học phương pháp làm cho thân thể cường tráng, không bệnh tật. Hai là học trị sinh, tức là học phương pháp làm cho có thức ăn, đồ mặc và quản lý sản nghiệp, ba là học làm người, làm quốc dân, tức là học cách tự kiềm chế và cách đối xử với quốc gia, xã hội”. Đấy quả thực là thiên tài Việt. Bởi vì phải 100 năm sau Jacque Delors mới tổng kết thành ra 3 cột trụ của giáo dục hiện đại (1). Ngôn từ khác nhau nhưng ý tưởng thật tương đồng. Đông Kinh Nghĩa Thục còn chủ trương “Dục khai dân trí tiên khai nhân trí”. Nay ta cũng đang có nhu cầu cấp bách nâng cao quan trí, sĩ trí.

d. Phải bỏ lối học khoa cử vì hư danh và để làm quan. Vì “khoa cử nọc độc, khoa cử thối nát”. Cổ vũ giáo dục thực nghiệp, học và thi cử gắn với công việc. “Để cho cái mà học sinh học và thi không trái với công việc thực tế họ phải làm”. Đề cao một phương pháp học tập thật văn minh, tiến bộ (mà ngày nay chúng ta cũng chưa làm được); “đặt đề mà hỏi. Cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do không phải nề hà, không cần thể cách gì hết”. Nhà trường không khép kín, nhà trường mở ra với những nhiệm vụ và hoạt động cứu nước, chấn hưng văn hoá và xã hội.
e. Đông Kinh Nghĩa Thục còn có một Minh Triết vô ngôn. Đó là nhân cách và vai trò của người thầy, của kẻ sĩ, của trí thức của dân tộc và thời đại. Nhân cách người thầy, nhân cách kẻ sĩ của các cụ Đông Kinh Nghĩa Thục thật cao cả. Họ để lại bài học quí giá cho hậu thế.
Tiểu kết cho mục minh triết về Giáo dục này tôi chỉ xin nêu một câu hỏi cảm khái tại sao ông Bộ Trưởng và toàn ngành giáo dục không nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngôi trường vĩ đại ấy của dân tộc mà tổ chức một cuộc học hỏi thật nghiêm túc và thông tuệ để tiếp thêm năng lượng cho sự nghiệp đổi mới nền giáo dục hiện nay?

3. Minh Triết “Chấn hưng công nghệ”, xây dựng một nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cuờng có nông công thương tín phát triển theo qui luật phổ biến với những phương thức hiện đại. Coi trọng công nghệ. “Công nghệ rất quan hệ với quốc gia. Ta không hơn người thì người sẽ bỏ rời ta. Tiền của phung phí ra ngoài nước, không còn gì tệ hại hơn thế nữa”. Coi trọng tiến thủ và cạnh tranh: “Cạnh tranh là để tồn tại" “Chỉ có thể tin cậy vào sự cạnh tranh của dân ta mà thôi”. Coi trọng sản nghiệp: “Thế giới càng văn minh thì của công càng ít, của riêng càng nhiều”. “Sản nghiệp nên là của riêng, không nên là của công”. Các tài sản vô hình (sáng chế, kỹ thuật của nghệ nhân, nhãn hiệu, tác phẩm, thư tín…) đều được coi là sản nghiệp. “Nước càng văn minh thì pháp luật bảo vệ sản nghiệp càng tường tận”. Phải coi trọng nhà doanh nghiệp. “Giá như người giàu bỏ vốn ra phát triển công nghiệp thì dân ta sẽ cảm kích, xưng tụng, sao lại sinh lòng đố kỵ”. Đường lối đố kỵ doanh nhân tai hại cho dân cho nước ai cũng rõ.

4. Minh Triết “Chính phủ chỉ là người trong quốc dân nắm chính quyền”.
Đông Kinh Nghĩa Thục nêu cao tinh thần dân tộc, nhấn mạnh cái ý thức quốc dân là chủ thể của nhà nước của xã hội, là nguồn lực của mọi hoạt động. Quốc dân có quyền lợi và nghĩa vụ. Chính phủ, cảnh sát, luật pháp… phải bảo vệ nhân dân, bảo vệ mọi sinh hoạt và quyền lợi của dân; “phải nghĩ rằng dân là gốc của nước, không thể bắt dân theo ý muốn của mình, chẳng phải chỉ không bạo ngược mà thôi”. “Phàm những quyền lợi mà dân đáng được hưởng thì phải theo chừng mực mà cho dân hưởng”; “Quyền chính sự một nước không thể để một người nắm hết”; “Quan đáng tôn, đáng trọng nhưng cũng chỉ là một người dân nắm chính quyền”. Nhiều ý tưởng minh triết như thế về sau này Hồ Chí Minh cũng thường nói đến.

Văn thư chính thống của Đông Kinh Nghĩa Thục có nói đến hai chữ chủ nghĩa. Chủ nghĩa mà Đông Kinh Nghĩa Thục nói tới có rất nhiều nội dung. Có thể lấy ngay ý tứ và chữ nghĩa mà Đông Kinh Nghĩa Thục để lại để đặt tên cho nó là chủ nghĩa Dân Bản Việt Nam. Vì một Tổ quốc Việt Nam độc lập, trường tồn, có dân trí, đạo đức, văn minh, có sản nghiệp, vì một thể chế chính trị dân chủ, nhân văn, tiến bộ… chính là thông điệp thiêng liêng và cao cả mà Đông Kinh Nghĩa Thục gửi đến cho chúng ta. Xin hãy nghe một câu nói của một nhân vật chủ chốt của Đông Kinh Nghĩa Thục là cụ Nguyễn Hữu Cầu nói với môn sinh trước lúc mất: “Nền tự do này, độc lập này mà đồng bào ta vừa giành lại được chúng ta phải giữ gìn trong lĩnh vực tinh thần. Chính bằng nghệ thuật và khoa học mà các dân tộc trường tồn. Chúng ta cần dõng dạc và tự hào khẳng định mình là một quốc gia. Phải làm sao thông qua nghiên cứu ngôn ngữ mà nghiên cứu dân tộc và làm sao in đậm trong tâm hồn tính cách hoàn toàn Việt . Ngày nay chúng ta quá Tây, quá Tàu, chúng ta là những người giáo điều “ba rọi", những người xã hội chủ nghĩa quyền hành. Chúng ta phải chính là Việt”.

(Trích từ Une Grande Figure De Lettré - của Nguyễn Văn Tố - Báo Le Peuple 4 – 8 – 1946 Hà Nội).
Chúng ta phải chính là Việt”. Chính vì thế mà với những gì đã làm được, Đông Kinh Nghĩa Thục xứng đáng là trường học vĩ đại của Dân tộc trong thời hiện đại".
Cần phải đào sâu vào tầng đá cứng may ra mới tìm được hạt kim cương. Phải công phu nghiên cứu để khai thác cho đăng những giá trị văn hoá mà tiền nhân để lại. Và nếu quên ông cha thì tâm hồn Việt cũng đã nhạt nhoà nhiều lắm. Xin cúi lạy Anh linh các bậc tiền bối của Đông Kinh Nghĩa Thục.
N.K.M

(nguồn: TCSH số 221 - 07 - 2007)

 



------------
(1): 3 cột trụ của Jacque Delors học để làm người làm việc, học để biết sống với người khác, học suốt đời.
Những chỗ trong ngoặc kép là câu chữ của văn thư Đông Kinh Nghĩa Thục.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.

  • NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.

  • PHẠM PHÚ PHONG            Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau.                                                                                       Nguyễn Đình Thi

  • PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)

  • NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.

  • HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.

  • NGUYỄN HUỆ CHI     Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.

  • ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.

  • THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.

  • TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

  • MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.

  • HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì  phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)

  • VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.

  • PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá

  • CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.                                      (R. Barthes, Độ không của lối viết)

  • TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứThử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…

  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.