Ứng Lăng - lăng Khải Định với những nét pha kiến trúc Tây Phương đã đem lại vẻ mới, lạ, độc đáo, được đánh giá có phần phô trương so với các công trình kiến trúc truyền thống của Việt Nam.
Phía bên ngoài lăng vua Khải Định
Lăng Khải Định (còn gọi là Ứng Lăng) là lăng mộ của vua Khải Định (1885-1925), vị vua thứ 12 của triều Nguyễn, toạ lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế.
Để xây dựng sinh phần cho mình, Khải Định đã tham khảo nhiều tấu trình của các thầy địa lý cuối cùng đã chọn triền núi Châu Chữ làm vị trí để xây cất lăng mộ. Ở vị trí này, lăng Khải Định lấy một quả đồi thấp ở phía trước làm tiền án; lấy núi Chóp Vung và Kim Sơn chầu trước mặt làm “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”; có khe Châu Ê chảy từ trái qua phải làm “thủy tụ”, gọi là “minh đường”. Nhà vua đổi tên núi Châu Chữ - vừa là hậu chẩm, vừa là “mặt bằng” của lăng - thành Ứng Sơn và gọi tên lăng theo tên núi là Ứng Lăng.
![]() |
Bên trong lăng vua Khải Định với vẻ đẹp độc đáo và mới lạ |
So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Định có diện tích khiêm tốn hơn nhiều, với kích thước 117 m × 48,5 m nhưng ngược lại cực kỳ công phu và tốn nhiều thời gian. Để xây lăng, Khải Định cho người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói Ardoise..., cho thuyền sang Trung Hoa, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh màu... để kiến thiết công trình.
Về kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới, cái lạ, cái độc đáo, cái ngông nghênh, lạc lõng... tạo ra từ phong cách kiến trúc.
Về tổng thể, lăng là một khối hình chữ nhật vươn lên cao có 127 bậc cấp. Sự xâm nhập của nhiều trường phái kiến trúc như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique... đã để lại dấu ấn trên những công trình cụ thể như : những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ; trụ biểu dạng stoupa của Phật giáo; hàng rào như những cây thánh giá khẳng khiu; nhà bia với những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể...
Điều này là kết quả của hai yếu tố: sự giao thoa văn hóa Đông - Tây trong buổi giao thời của lịch sử và cá tính của Khải Định.
Nguồn batdongsan.com
PHAN THANH HẢI Làm non bộ hay giả sơn là một phần quan trọng trong nghệ thuật vườn cảnh phương Đông truyền thống. Xuất phát từ Trung Hoa rồi lan rộng ra các nước xung quanh, nghệ thuật non bộ đã có một lịch sử phát triển lâu dài với nhiều trường phái phong phú.
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG I. Tổng quan về điện Thái HòaĐiện Thái Hòa (太和殿) là công trình quan trọng nhất trong Hoàng Thành (皇城) Huế làm nơi đặt ngai vua và tổ chức các lễ đại triều từ năm 1805 (từ khi xây dựng) đến năm 1945 (đến khi chấm dứt chế độ quân chủ ở Việt Nam).
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG Việc dùng điển tích trong thơ ở đây rất thích hợp với tính chất của loại thơ suy lý, nó làm cho câu thơ trở nên gọn gàng, ít lời mà nhiều ý, nhưng cũng có lúc tính “kiệm ngôn” trong thơ đã làm cho nội dung trở nên xa xôi, dễ bị nhầm lẫn, ngộ nhận.
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG(tiếp theo và hết)
TRẦN ĐỨC ANH SƠN Hệ thống thủy đạo Kinh Thành Huế là một mạng lưới gồm 3 lớp:
TRẦN HOÀNGDân tộc Taôih ở Thừa Thiên Huế thường quây quần sống với nhau thành từng vel (làng, bản). Mỗi vel, thuở xưa có trên dưới vài ba chục nóc nhà (dung). Cũng như làng của dân tộc Kinh, vel của người Taôih chứa đựng nhiều mối quan hệ xã hội như: gia đình - gia tộc, láng giềng, chòm xóm... Mỗi vel thường có một cái tên riêng, hoặc mang tên nguồn nước, khe suối, đồi núi nơi dân vel cư trú, hoặc khởi nguyên từ những trang huyền thoại, huyền tích của bộ tộc từ thuở xa xưa.
THÁI THÀNH VÂNTôi xuống ga Huế một chiều đầu xuân. Ngoài trời mưa phùn rét nhẹ. Chàng trai chạy xe ôm đón tôi, nói vui:- Anh đến Huế mà gặp mưa là hên đó. Anh về mô?
TÔN ĐẠIThành phố Huế với tư cách là một di sản và là một quĩ kiến trúc đô thị có vị trí đặc biệt trong hệ thống các đô thị ở nước ta. Cảnh quan kiến trúc các đường phố, các khu phố, các cấu trúc cư dân truyền thống cùng với hệ thống quần thể di tích cố đô Huế đã góp phần tạo nên diện mạo độc đáo, vẻ đẹp của chốn đô thị- tuyệt tác thi ca này.