TRẦN THỊ TRƯỜNG
Bất giác tôi nhìn sang phía tường bên trái, bên cạnh một chữ Tâm tuyệt đẹp là một chữ Duyên (trên nền giấy bồi trong khung gỗ) đã bị rách làm hai ... Tôi liếc nhìn thầy, thầy làm như không biết, nâng chén một lần, mỗi lần là mỗi tiếng thở dài nén lại...
Nhà văn Trần Thị Trường
Đã ba mươi mấy tuổi tôi mới cắp sách đến trường. Gọi là trường nhưng thực chỉ có một thầy và vài trò. Các trò đều còn rất trẻ chỉ có tôi là vợ đùm con rúm. Biết là đã muộn nhưng tôi không thể không theo, thậm chí cho rằng nếu không học thì coi như đời chẳng còn nghĩa lý gì. Lẽ ra tôi phải đi học môn này từ khi còn trai trẻ. Cha tôi là người mà tôi kính trọng, một người đã chịu đựng khá nhiều bi kịch cá nhân mà vẫn không bao giờ để mất niềm hy vọng, cũng là một người để lại cho anh em chúng tôi một tài sản đáng kể. Hầu hết những tài sản ấy đều có giá trị kinh tế, mà lại rất trang nhã. Chỉ cần bán một thứ trong đó như bản thư họa của Shoya Tofu của danh nhân Nhật Bản thì chúng tôi mỗi người cũng đủ tiền xây nhà cưới vợ. Nhưng bố tôi lại hy vọng là anh em tôi sẽ sống sung túc để không phải bán mà nếu có nghèo thì cũng không bao giờ muốn bán. Bố tôi còn hy vọng tôi sẽ theo học thư pháp. Bố tôi bảo học được nghệ thuật thư pháp thì con người giữ được cốt cách theo nếp thánh hiền. Cứ như bố tôi thì chỉ riêng cái việc giấy đốt đi hàng gánh, bút nghiên rửa đen mấy ao làng mới đến được với nghề cũng đã đủ để luyện ra người có chí.
Khi chúng tôi ai nấy đều có gia đình riêng thì bố mẹ tôi cũng đã qua đời. Tôi nhường các em nhà cửa, đồ đạc chỉ mang theo một bức thư pháp, một cái chóe nâu chạm rồng đến nhà tập thể được phân bên vợ. Vợ tôi bảo nếu không muốn ở tập thể thì bán đi một thứ trong di sản ấy mà mua nhà khác nhưng tôi yêu những thứ đó đến mức không thể làm thế được. Ở nhờ nhà vợ cũng nên nể vợ mà lo những việc cho vợ, mãi đến bây giờ mới cắp sách đến nhà thầy.
Một năm theo học, mỗi tuần ba buổi, mỗi buổi ba giờ. Lúc đầu mươi trò, rơi rụng dần giờ còn sáu. Thầy bảo: "Các anh cứ theo đưọc đến mươi năm mà vẫn còn sáu thì thầy chẳng còn gì phải thẹn với trời". Chữ thầy tôi đẹp lắm. Thầy viết được cả 6 loại: Khảo, Triện, Lê, Chân, Hành, Thảo. Nhưng đặc biệt ở chỗ thầy viết đẹp cả loại Chân cả loại Thảo trong khi có người viết đẹp loại này thì không viết đẹp được loại kia. Nếu thầy viết để tặng người bề trên hay để dâng đình, dâng chùa thì viết lỗi chữ Chân. Khi ấy, thầy đã trai giới bày ngày, mặc áo the mới, đốt một lư trầm, quỳ trên chiếu hoa. Nghiên mực trước mặt, thầy nghiêm trang giầm bút vào nghiên rồi nâng khỏi đầu kính xin thiên khí rồi mới hạ đề. Chữ nào chữ ấy trông như có hồn người quân tử phảng phất, trông như có khí thánh nhân ở bên trong. Nhưng nếu thầy viết cho người những tri kỷ, những nhà thơ hay đến đàm đạo văn thơ với thầy, đàm đạo nhân tình thế thái thì thầy viết lối chữ Thảo. Trông nét chữ trên mặt giấy khoáng đạt tưởng như có rồng bay trong mây, thanh thoát uyển chuyển như chim liệng trong gió...
Càng học tôi càng say mê, nhiều khi đắm chìm trong cái bầu không khí hăng hắc mùi mực, nhiều khi tha thẩn đi ra bờ ao. Nhìn xuống mặt nước cũng thấy hàng hàng chữ chữ hiện ra. Một hôm tôi đang nhìn xuống mặt ao như thế thì thấy nước dưới ao lay động. Dụi mắt nhìn lại thì thấy dưới đáy ao có hình một người con gái tóc tết đuôi sam. Không dám ngảnh lại nhưng đoán người đằng sau lưng là con gái thầy... Người đâu mà cổ đến thế, cũ đến thế, suốt ngày ru rú trong buồng, chẳng mấy khi để ai trông thấy mặt. Bây giờ đứng đó làm chi.
Tần ngần một lúc đã định liều quay lại nhìn thì thấy mặt ao phẳng lại như tờ, mặt người dưới ao biến mất. Chắc bước chân người ấy nhẹ tựa lông hồng. Không nhìn tận mặt đâm ra càng tiếc, càng hình dung là người đẹp và càng muốn hỏi cho thỏa nỗi lòng nhưng rồi không dám.
Hôm ấy nhà thầy có việc gì quan trọng mà tôi không biết nên vẫn đến để học như thường lệ. Thấy không tiện đang xin phép ra về thì thầy bảo ở lại. Nhìn ở phòng khách thấy có treo nhiều bức thư pháp thật tuyệt. Mỗi bức không chỉ là những bố cục biến đổi tài tình mà nét chữ lúc thanh lúc đậm, lúc vắn lúc trường, khi cứng cáp khi mềm mại, khi cương trực khi uyển chuyển nhịp nhàng. Nhìn mà tưởng tượng, mà muốn thấy được bàn tay, ngọn bút của người nho sĩ...
Thấy tôi đứng lâu ở trước những bức họa thư, thầy tôi bước đến:
- Anh thấy thế nào?
Tôi ấp úng, cảm động:
- Thưa thầy đẹp quá, đáng gọi kỳ phu, chắc phải là bậc kỳ tài. Thưa thầy của ai đấy ạ. Con rất ngưỡng mộ.
Thầy tôi im lặng không nói. Tôi cũng không dám gặng khi thấy gương mặt thầy u uẩn. Thầy bảo: “Có phải ngày gì quan trọng đâu... Đã tròn bốn năm anh học với thầy. Cái ngày anh đến có thể anh quên nhưng thầy thì nhớ. Thầy thấy anh khác người, thấy anh có chí thầy quý, thầy muốn uống với anh vài chén và cũng là để anh xem biết cái...”.
Thầy nói đứt quãng, giọng buồn buồn, tôi không sao hiểu được một cách rõ ràng. Nhưng chắp lại dần dần thì cảm thấy, những bức thư họa ấy là của con gái thầy viết. Tôi a khan một tiếng trong lòng. Chao ôi, đàn bà con gái đâu có thể làm được việc này? Người ta vẫn bảo Nghệ thuật Thư pháp là thái cực quyền trên giấy là thần khí trên đầu ngọn bút. Đàn bà con gái làm thế nào được. Vậy đây là một... đại nhân.
Và tôi bỗng lập tức nhớ lại những ấn tượng lạ lùng khi lần đầu đặt chân đến nhà thầy. Những ngôi nhà kiểu cổ có nhiều câu đối và bình phong vốn thường toát lên vẻ u nhã sâu xa nhưng ở nhà thầy cái không khí u nhã ấy lại có gì nặng nề uẩn khúc, tất cả đều lành lạnh như thiếu hơi người. Cái vẻ đầu tiên tôi nhớ khi thấy mặt thầy là một nếp nhăn chua chát, nhỏ thôi nhưng hằn lệch một bên khuôn mặt. Và, đúng rồi, tôi nhớ có một câu đối dang dở chỉ có một vế, nét của thầy theo lối chữ Thảo “Mộng trung nhân Hoàng Lương chi hà xứ”... Lúc đó tôi không hiểu, chỉ thoáng nghĩ thầy độc thân hẳn còn in một bóng hình nào. Tờ hoa ấy sau thầy đã bóc đi. Nay nghe thầy kể thì ra không phải. Thầy thương và giận người vợ quá cố. Bà vợ thấy cảnh nhà đạo ấy quá nghèo, lén chồng mang bán một trong ba cái nghiên mực cổ cho tay lái buôn nào đó. Tay lái này, để tìm cách mua được báu vật, không biết bằng cách nào đã quyến rũ được vợ thầy trong một thời gian. Việc vỡ lở. Bà ân hận quyên sinh. Thầy vừa hận chưa có con trai vừa căm ghét bọn người ma giáo đầy rẫy ở đời nên rèn giũa con gái như một đấng nam nhi. Nhưng cô gái thì hình như đã đem lòng thầm yêu trộm nhớ một ai đó. Vốn hiếu thuận, lại nết na, hiểu lòng cha cô tự ép mình xa lánh người đời, bẩm sinh có khiếu lại học đến mức tài hoa, rắn rỏi như trai cố sống như cha muốn để cha đỡ tủi. Có lẽ chàng trai của cô đã bỏ ra đi, còn cô thì âm thầm chốn thư phòng. Nhiều năm như thế mà lũ học trò chúng tôi cũng chỉ thoáng trông thấy bóng... Thầy nói đến đấy, giọng thầy đã nặng vẻ ân hận xót thương nhưng mà... biết làm sao nữa. Xuân đã qua ngần ấy thì, vẫn thiếu nữ mà không còn xuân sắc... Tôi nghe, lặng đi thấy trong chén rượu gương mặt đáy ao ngày ấy...
Mồ hôi ướt đẫm lưng áo mặc dù đang tiết trời đông. Tôi tự trách mình bốn năm đâu có ít ngày mà sao tôi lại vô tình đến thế, không biết ở đây, trong nhà này có người tài. Hay không phải tại tôi, mà tại thầy tôi một người quá chú trọng đến lễ nghi, đến trắc trở ở đời mà làm cho con gái mình bỏ lỡ cơ hội góp mặt với đời như người thiếu duyên cuộc sống. Người cũ đã một đi không trở lại, tôi thì đã có gia đình vợ con nhưng ở đời còn bao nhiêu người đàn ông xứng đáng, thầy ơi.
Bất giác tôi nhìn sang phía tường bên trái, bên cạnh một chữ Tâm tuyệt đẹp là một chữ Duyên (trên nền giấy bồi trong khung gỗ) đã bị rách làm hai, treo ở khuất ở góc ngoài cùng. Nét chữ và cách đặt chữ là chung với một kiểu của thư bản nọ. Không phải của thầy.
Tôi liếc nhìn thầy, thầy làm như không biết, nâng chén một lần, mỗi lần là mỗi tiếng thở dài nén lại. Lòng tôi nôn nao, tâm tôi xao xuyến. Tôi thầm nghĩ nếu thầy cho phép thì tôi gỡ chữ Duyên bị rách kia xuống và đêm nay về tôi sẽ viết một chữ Duyên khác với tất cả tâm hồn tôi, tài hoa của tôi ngày mai đem đến thay vào.
Dù không biết mặt nàng nhưng nhìn chữ viết là tôi đã mê người lắm. Nhưng về nghĩ lại. Chữ Duyên thầm viết không biết bao nhiêu lần trong bóng đêm mà sáng dậy lại thôi.
Ước gì tôi có thể hiểu được ý nghĩ của thầy cái hôm thầy cho tôi cùng uống rượu. Nhưng bây giờ đã là gần trăm năm so với ngày người ta viết "giấc mộng lầu hồng". Không biết người tài, người ở chốn u buồn có một chút nào nghĩ đến tôi chăng?
Tháng Chạp năm 2000
T.T.T
(SH số tháng 5 - 2001)
Trời qua cơn mưa đêm, nắng hừng lên. Quang cảnh thị trấn sạch sẽ, óng ả. Tôi đang ngồi làm tin tờ bên cửa sổ. Chợt thấy một cô gái vén quần bước qua vũng nước ngoài đường, cô mặc bộ áo quần màu đen...
THÁI ĐÀO
1.
Họ đã đi rồi. Những người từng cưu mang tôi một thời đã bỏ đi Mỹ theo diện HO rồi. Tôi một mình lang thang trở về lều chợ. Con Khờ đứng ở cổng chợ chờ tôi. Nó đưa tay vẫy vẫy. Bây giờ người thân thích còn lại của tôi la nó, con mắt nó cũng đượm buồn. Nó đưa mắt hướng về đường cái, quốc lộ. Tôi hiểu, nó cũng xót xa vì những người ra đi.
TRẦN DUY PHIÊN
1.
Thầy Năm trở lại miền Tây với ba đồng sự và một nhóm nhỏ giáo dân. Trước ngày lên đường, thầy đã nói với họ bên kia những chóp núi ngợp mắt ấy có một thung lũng mầu mỡ bạt ngàn.
DƯƠNG THÀNH VŨ
Học hết bậc tiểu học trường làng tôi lên phố học tiếp, thi thoảng có phương việc chạp giỗ mới về.
TẠ DUY ANH
Một hôm viên chánh án của Tòa án nọ nhận được lá đơn kiện kỳ lạ chưa từng có. Để độc giả đỡ sốt ruột, người kể xin miễn miêu tả nét mặt viên chánh án khi đọc xong đơn.
CUNG TÍCH BIỀN
1.
Dòng họ Trần Liêu vào định cư ở bờ Bắc sông Thu một thời gian lại gặp chuyện chẳng lành. Mấy năm liền, mùa hè như trong lò thiêu, mùa đông như băng giá, khí hậu khắc nghiệt, khắp nơi bị lụt lội, hạn hán, mưa đá, bão tố; lúa đang đòng đòng sâu bọ ăn hết, kiến vàng làm tổ trong măng tre măng trúc; giếng nước có rắn, dọc bờ sông cá sấu phơi mình trên cát; giữa trưa khô khốc từng bầy voi lang thang đi tìm nước dọc bờ sông trắng. Gió rao truyền những tai ương, và biển bủa sóng báo hiệu của hoang phá điêu tàn.
ĐOÀN LÊ
Cây lá héo rũ. Hơi nóng bốc rung rinh trên một mỏm lá xám. Cả hoang đảo say nắng ngất ngư tới tận khi mặt trời đỏ nẫu sắp rụng xuống gốc biển.
HOÀNG TỐ MAI
"Ta muốn nhìn bông hoa đen nở nụ, trên cánh mỏng là đường diềm trắng gấp khúc uốn lượn. Giá mà ta được nhìn thấy".
Thỉnh thoảng chị tôi viết mấy dòng chữ này vào những mẩu giấy bất kỳ nhất là khi trời đổ mưa phùn rỉ rách. Lúc ấy ngoài trời vắng tanh, ở đâu cũng đầy bùn và mùi ẩm ướt. Chỗ nào cũng đầy mùi ẩm ướt. Trời càng lạnh.
PHẠM THỊ HOÀI
Ngày mười lăm tháng hai năm một ngàn chín trăm tám mươi bảy, tòa án nhân dân thành phố H. mở phiên tòa xử một trường hợp đặc biệt. Bị cáo là một phụ nữ bốn mươi tuổi, độc thân, phạm tội hành nghề mê tín dị đoan có hệ thống, có tổ chức, quy mô lớn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống xã hội, nổi tiếng dưới tên gọi "người đoán mộng giỏi nhất thế gian".
NGUYỄN HUY THIỆP
I - GÂY CHUYỆN
Trong số người quen của tôi, tôi rất nể phục nhà nghiên cứu văn học K.. Anh am hiểu các vấn đề lý luận văn học ở ta (lĩnh vực mà thú thực tôi không hiểu gì mấy). Những bài viết của K. có thời được nhiều người ví như "ngọn roi" quất vào "con ngựa sáng tác văn học" giúp nó phi nhanh hơn và không trật đường.
HỮU PHƯƠNG
Nắng gắt. Những đợt gió Lào đầu tiên ồ ồ thổi qua cánh đồng đất cát, cuốn bụi mù mịt, ném cát vào mặt lão Điều. Lão bước vội vã, lúp xúp. Đúng hơn là lão lủi, dọc theo bờ phi lao cao bằng đầu người, cằn cỗi và vàng hoe, mắt dớn dác trông chừng bốn phía.
TÔ NHUẬN VỸ
I.
Tiếng còi như con thuồng luồng đen khổng lồ chạy loạn lên trong không gian với tiếng hụ hụ trần truồng. Mọi vật loạng choạng. Cây lim già, cây đa nhiều cành, cây si rễ già, những hàng cây lớn bé bên hồ rùng mình, rồi như cùng một lúc nghiêng hàng vạn tai lá nghe tiếng hụ. Đã khá lâu rồi, tiếng hụ của còi mới quen lại trong không gian thành phố.
CAO LINH QUÂN
Có một con Dã Tràng sống ngoài bãi biển Nha Trang. Ngày trước, cũng lâu rồi, đang tuổi thiếu niên, ham rong chơi, có lần nó lên tới mặt đường, ngỡ ngàng nhìn Viện Pasteur mới xây cất xong. Cái lâu đài đứng một mình trong nắng như dát vàng đó làm chú ta mê mẩn.
THÁI NGỌC SAN
Mới nhìn qua, gã có vẻ hung dữ, một người làm người khác luôn luôn phải cảnh giác trước khi đến gần. Một vết sẹo chạy từ đỉnh trán bẻ quặt xuống khóe mắt phải như muốn kéo con mắt gã ra khỏi tròng.
Bộ sách kỷ niệm 30 năm Sông Hương, riêng tập tuyển truyện ngắn được chọn xuyên suốt trong 30 năm chứ không phải chỉ 10 năm như tuyển bài ở các chuyên mục khác.