PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.
Ảnh: internet
SBC là săn bắt chuột1 được Nhà xuất bản Trẻ ra mắt lần đầu năm 2011, tái bản ba lần vào các năm 2012, 2014 và 2016. Nội dung cuốn sách được bố cục thành các chương, tên mỗi chương lại khuôn định phạm vi trong một loại người, như “ai quá lứa lỡ thì”, “ai báo chí văn thơ”, “ai giàu xổi”, “ai làm luật”, “ai giáo sư”… Không ít độc giả dễ cảm tưởng đây là một văn bản trào phúng mượn chuột nói người, hướng ngòi bút phê phán vào bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Nếu xem cuộc chiến giữa người và chuột trong tác phẩm như một trục nguyên cớ để từ đó tác giả mở ra các mảng hiện thực đời sống và con người, thì cách hiểu trên không sai. Và quả thực, đó cũng là một trong những chiến lược tự sự quen thuộc của Hồ Anh Thái. Tuy nhiên, với cách hiểu ấy, khó đánh giá hợp lý vai trò của hệ thống nhân vật chuột trong tác phẩm. Tôi đề xuất một cách đọc khác có thể khắc phục hạn chế nêu trên, đồng thời mở ra những lớp nghĩa mới từ góc nhìn của phê bình sinh thái. Lúc này, cảm hứng phê phán xã hội vẫn được thừa nhận, nhưng với tư cách là chất liệu cho một tầng nghĩa cao hơn.
Từ mã văn hóa, hình ảnh con chuột đã xuất hiện bên cạnh con người từ thuở sơ khai với tư cách một biểu tượng lưỡng tính, đa trị. Trong văn hóa Hy Lạp cổ, thần Apollon còn có tên khác là Sminthée, một chữ phái sinh mà dạng thức gốc của nó nghĩa là con chuột. Tính hai chiều của cái tên này được thể hiện qua quyền năng của vị thần, vừa là đấng bảo vệ mùa màng, vừa là thế lực lan truyền dịch hạch2. Ở nhiều nền văn hóa lớn khác trên thế giới, các cực giá trị đối lập của biểu tượng chuột như phá hoại - có ích, nhục thể - thiêng liêng, đáng khinh - đáng phục, đáng sợ - vui tươi… thường xuất hiện biệt lập qua những mẩu chuyện được lưu truyền rải rác trong thư tịch cổ và con đường truyền khẩu dân gian. Hồ Anh Thái gom tất cả nét nghĩa ấy vào tác phẩm, nhưng tái cấu trúc và bổ sung thêm sắc thái mới. Như nhan đề, cuốn sách kể về chuyện… săn bắt chuột, đúng hơn là cuộc chiến giữa chuột và người, mà căn nguyên là motif quen thuộc, loài vật báo oán. Để trả thù nhân loại, Chuột Trùm phát động dị năng: ai nhìn vào mắt nó sẽ rơi vào trạng thái mất trọng lượng, cơ thể như một quả bóng bay lơ lửng lên trời. Căn bệnh này có thể lây lan trở thành đại dịch. Muốn giải cứu nạn nhân, chỉ có cách duy nhất là giết chết Chuột Trùm. Cuộc chiến bắt đầu. Đôi mắt Chuột Trùm có hiệu năng như một lời nguyền, nhưng đáng chú ý, đó luôn là đôi mắt u sầu.
Đôi mắt trở thành một tín hiệu thẩm mỹ, và để giải mã, cần khám phá được cách thức mà Hồ Anh Thái đã tái cấu trúc các nét nghĩa sẵn có của biểu tượng chuột trong văn hóa dân gian. Lúc đầu, hình ảnh con chuột hiện lên thật kinh dị. Đàn chuột nhung nhúc hàng trăm con, được tổ chức như một vương quốc thu nhỏ. Mỗi lần chúng di chuyển, người ta cảm giác như một dòng sông chuột. Có những cá thể to như chó săn nhờ rỉa thịt tử thi ở nhà xác bệnh viện, rỉa thịt thai nhi bị vứt ở các bãi rác y tế. Có những con đã thành tinh, có khả năng báo mộng cho người, hoặc giết người bằng phép thuật… Nếu dừng ngang đó, hành trình diệt chuột chỉ là cuộc phiêu lưu đậm chất huyền ảo, như một hướng sáng tác khá nổi ở nước ta trong mấy năm gần đây. Thế nhưng, cảm nhận ban đầu ấy chỉ nằm trong dụng ý của Hồ Anh Thái nhằm đánh lạc hướng độc giả. Qua những biến cố của cuộc chiến, người đọc chạnh lòng nhận ra, thế giới loài chuột còn đầy ắp phẩm chất cao đẹp, đáng kể nhất là tình đồng loại và đức hy sinh. Với nhà văn, đó hoàn toàn không phải quá trình phục thiện theo chuẩn mực đạo đức của con người, mà là phẩm chất vốn có tự nhiên của con vật.
Bức tranh thế giới loài chuột lại luôn được đặt trong thế song hành, tương phản với thế giới nhân loại mà tác giả cố ý phơi bày ở những chiều kích mục nát, u tối của đủ hạng người. Vợ chồng nhà chuột chung thủy sắt son thì Giáo Sư hăm hở hùng hục bạ đâu húc đấy. Vua tôi nhà chuột gắn kết bằng nghĩa bằng tình thì bè lũ Cốp, Kễnh, Đại Gia cấu kết bằng quyền bằng lợi. Chuột Trùm đổi mạng cứu hiền thê thì Luật Sư đẩy mẹ ruột từ ban công sân thượng để tiếm đoạt gia sản… Sự đối sánh ấy không hẳn chỉ để toát lên vẻ chua chát về tình trạng thoái hóa đạo đức khiến con người trở nên thua kém loài vật. Chủ yếu, đó là phản đề cho thứ ý niệm mà các nhà phê bình sinh thái gọi là chủ nghĩa nhân loại trung tâm. Nó đánh thẳng vào tín điều cho rằng con người là trung tâm vũ trụ, là kết tinh của vẻ đẹp tự nhiên.
Con người hiện đại đang vi phạm những chuẩn mực làm người, nhưng ngay bản thân những chuẩn mực ấy, không phải điều nào cũng thật sự phù hợp với lý tưởng của tự nhiên. Chúng ta nhớ lại, sự kiện đầu tiên làm nảy sinh lý do cuộc chiến: bãi lầy mà nhân vật Đại Gia đang cho người tiến hành san lấp để xây dựng chuỗi căn hộ cao cấp vốn là nơi cự ngụ của đàn chuột do Chuột Trùm thống lĩnh. Hồ Anh Thái mượn tích con rắn báo oán, thay rắn bằng chuột, tạo thành nguyên cớ cho truyện kể. Nhưng nếu trong tích cổ dân gian, hiện tượng kết oán có thể chỉ như một tình huống ngẫu nhiên dẫn đến kết cục oan nghiệt cho các số phận, thì khi được đưa vào tiểu thuyết, nó trở thành một sự kiện biểu hiện ý thức sinh thái hiện đại: đồng nghĩa với sự mở rộng không gian sinh tồn của nhân loại là sự tranh cướp không gian sinh tồn của rất nhiều giống loài khác. Sự phát triển của văn minh nhân loại đang xa dần con đường hòa hợp với thiên nhiên. Cạnh tranh để sinh tồn là khó tránh khỏi, nhưng nên ý thức được, hòa hợp để sinh tồn mới là chuẩn mực tự nhiên cao nhất.
Ngay cả những cảm giác rùng rợn về bầy chuột đoạn đầu tác phẩm cũng cho thấy một sự áp đặt cái nhìn phiến diện của con người lên thiên nhiên. Hồ Anh Thái đã giải cấu trúc sự áp đặt ấy. Chúng ta ghê tởm những con chuột ăn thịt người mà quên rằng ai đã “nuôi” chúng. Chúng ta kinh sợ những con chuột to bằng con chó mà quên rằng rất nhiều biến thái kỳ dị của thiên nhiên là do con người gây ra. Đã có lời đồn về những con chuột to bằng con lợn do nhiễm phóng xạ trong thảm họa Chernobyl.
Ánh mắt nguyền rủa của Chuột Trùm lên con người không thuần túy chỉ một ý chí trả thù, hơn thế, đó là hình phạt cho những vết thương vô phương cứu chữa mà con người vẫn đang từng ngày khoét sâu lên thân thể Mẹ Tự Nhiên. Chuột Trùm là hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh và thân phận của tự nhiên. Do đó, ánh mắt của nó không đanh ác, mà u sầu. Thiên nhiên trừng phạt con người bằng chính cái chết của thiên nhiên. Sắc thái u sầu là một dấu ấn sáng tạo của Hồ Anh Thái cho hình tượng con chuột trong văn hóa và văn học Việt Nam.
Kết thúc tác phẩm, Chuột Trùm bị giết, lời nguyền được phá bỏ. Con người lại tiếp tục chiến thắng trong một trận chiến tranh giành không gian sống với tự nhiên. Nhưng chốt khung ở hai đầu truyện kể là trận lụt mở màn và trận hạn hán kết thúc, gợi nhớ những đại thảm họa khủng khiếp từng được nhắc đến trong truyền thuyết của rất nhiều tôn giáo và dân tộc trên thế giới, nhằm răn đe tội lỗi con người. Chiến thắng nhất thời ấy chỉ là sự quẫy đạp trong phút chốc của nhân loại trước bờ vực diệt vong không còn xa nữa.
Nếu Hồ Anh Thái là cao thủ Trong trò chơi cấu trúc văn chương, thì SBC là săn bắt chuột là tiểu thuyết thành công bậc nhất của ông ở phương diện này. Nó kết hợp hai kiểu cấu trúc truyện kể mà trước đó Hồ Anh Thái thường sử dụng. Kiểu thứ nhất tạm gọi là song hành - đồng đẳng như trường hợp Đức Phật, nàng Savitri và tôi (2007). Tác giả tạo thành hai tuyến truyện kể phát triển song song, soi chiếu vào nhau để bật lên ý nghĩa, không có sự lệ thuộc một chiều của tuyến này vào tuyến kia, và không có tuyến này thì sự hiện diện của tuyến kia trở nên vô nghĩa. Kiểu thứ hai là phân mảnh - phụ thuộc như trường hợp Cõi người rung chuông tận thế (2002), hoặc gần đây có cuốn Tranh Van Gogh mua để đốt (2018). Một tuyến đóng vai trò trục chính, từ đó tỏa ra các tuyến truyện kể liên quan đến từng nhân vật. Trục chính được tạo dựng dựa trên một nhân tố bí ẩn theo kiểu của truyện trinh thám, neo giữ toàn bộ các mẩu chuyện nhỏ như những mảnh ghép về thế giới hiện thực. Mỗi mẩu chuyện lại gần như đều có năng lực “độc lập tác chiến”. Đây là cách Hồ Anh Thái làm chủ kỹ thuật phân mảnh. Về chiến lược tự sự, SBC là săn bắt chuột thuộc về kiểu cấu trúc thứ hai, nhưng xét về tương quan vai trò giữa tuyến chuột và tuyến người trong việc bộc lộ ý nghĩa, nó lại thuộc về kiểu thứ nhất. Việc tạo thành một cấu trúc như vậy, nghe có vẻ đơn giản, nhưng khi được cụ thể hóa trong sự hợp nhất với các yếu tố cấu thành chỉnh thể nghệ thuật thì rất dễ đẩy tác giả lạc lối trong mê trận của chính mình. Hồ Anh Thái thành công, bởi đã tạo ra được một văn bản truyện kể theo đúng tôn chỉ mà cá nhân ông theo đuổi: logic, sáng rõ và lôi cuốn.
Năm mới Canh Tý 2020 đã đến. Vậy là Hồ Anh Thái đã đi hết một vòng hoa giáp nhân sinh. Với văn chương, gia tài của ông đã thật đáng ngưỡng mộ. Nhưng qua vài tác phẩm gần đây, tôi dự cảm, một chặng mới trong hành trình sáng tạo của ông sắp sửa bắt đầu. Ông đã gác bỏ bổn phận của một công chức để quy tụ nhiệt huyết và tinh lực cho những chuyến đi, không chỉ trên nẻo đường của chữ. Còn đi còn viết. Viết, như một phương cách hiện hữu giữa đời…
P.T.H.L
(TCSH372/02-2020)
--------------------
1. Hồ Anh Thái (2011), SBC là săn bắt chuột, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
2. Jean Chevalier & Alain Gheerbrant (2015), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (tái bản lần thứ 3), Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
“Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.
Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.
Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.
Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.
Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.
LÊ VIỄN PHƯƠNG
(Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)
Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.
17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.
Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.
Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".
LÊ HUỲNH LÂM
Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.
NGỌC THANH
Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.
“Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.
ĐẶNG HUY GIANG
Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.
Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...
BÍCH THU
(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)
Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.
Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.
Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.
Sách được các sư cô Thiền viện Viên Chiếu lược dịch, biên soạn từ nhiều nguồn tư liệu, chủ yếu là tư liệu chữ Hán, tiếng Anh, giúp người đọc hiểu thêm con đường tu tập của pháp sư Huyền Trang.