Từ ngày Thất thủ Kinh đô...

08:44 10/07/2015

KỶ NIỆM 130 CHÍNH BIẾN THẤT THỦ KINH ĐÔ (23/5 ẤT DẬU 1885 - 23/5 ẤT MÙI 2015)

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

Huế, trong lịch sử từng là vùng đất đóng vai trò một trung tâm chính trị - văn hóa, từng gánh chịu nhiều vết thương của nạn binh đao. Chính biến Thất thủ Kinh đô 23/5, vết thương lịch sử ấy ăn sâu vào tâm thức bao thế hệ người dân Cố đô.

Ảnh: Lê Vũ Trường Giang

Nhiều năm sau, biến cố kinh hoàng đó vẫn được nhắc lại, truyền tụng, lan tỏa trong dân gian, trong các tác phẩm văn học giàu lòng trắc ẩn. Vè Thất thủ Kinh đô - sản phẩm truyền miệng đến nay, tồn tại dưới nhiều dị bản nhưng thống nhất ở thái độ kháng Pháp của quan quân nhà Nguyễn và nỗi đau thương của dân chúng. Nhà nghiên cứu Huế Võ Hương An trong bài viết Mấy lần thất thủ kinh đô (2005) đã nhớ đến ngày Thất thủ Kinh đô qua bài vè được một người phụ nữ nghèo khổ tên là mụ Mì ngày ngày lang thang khắp chốn kinh thành để kiếm vài xu sống qua ngày, kể lại: “Mệ ngoại tôi và mạ tôi thuộc lòng nhiều đoạn của bài vè, vậy mà mỗi lần nghe mụ Mì gõ cặp sanh cầm nhịp và cất tiếng khàn khàn kể chuyện kinh đô khói lửa, vẫn không cầm được nước mắt”.

Vè Thất thủ Kinh đô miêu tả cuộc tấn công của quân Pháp:    

“Súng Tây nó nổ đì đùng
Hai bên phường điếm hãi hùng kêu la
Người chui bụi, kẻ vọt ao
Người lòn xuống cống, lao xao canh chầy”


Dân chúng khiếp đảm trước hỏa lực của giặc, tìm đường thoát thân để khỏi dính nạn binh đao. Bài vè dùng nhiều từ “chui”, “vọt”, “lòn” để diễn tả muôn cách thoát thân của dân chúng khỏi vạ vào binh đao.

Tất cả ở trong kinh thành và chỉ có thể thoát ra được bằng các cửa thành, lúc này đang bị quân Pháp dần chiếm, tình cảnh đó giống như:

“Lao xao như cá trong đìa
Tránh sao cho khỏi súng lia vào mình…”


Vào được thành, quân Pháp đốt nhà cửa, phố xá để vây khốn quân, dân ta:

Đốt từ chợ nội đốt đi
Hai bên thiên hạ vậy thì than van
Hãy còn của cải bạc vàng
Nửa thời mất mát nửa tàn ra tro


Cảnh tượng dân chúng già trẻ lớn bé hốt hoảng chạy loạn giữa khói lửa mịt mù, tên bay đạn lạc, sự sống trở nên mong manh.

“Lô nhô trẻ dìu già, ông nách cháu, chân còn đi, đầu chốc lìa vai!
Lao nhao con khóc mẹ, vợ kêu chồng, tiếng chưa ngớt, xương đà chất đống!
Oan uổng quá mấy ông trên võng, thình lình sét đánh, sống chẳng trọn đời.
Tội tình thay lũ bé trong nôi, cắc cớ sao sa, chết đà trắng bụng.”

             (Văn tế cô hồn ngày 23/5 ở kinh thành Huế của cụ Phan Bội Châu).

Quân Pháp đã gây ra tội ác tày trời, tàn sát nhiều dân lành trong cuộc chiến. Cụ Phan đã nói đến những cái chết đầy tai ương: “đầu chốc lìa vai”, “xương đà chất đống”, “sống chẳng trọn đời”, “chết đà trắng bụng”... Bất kể, già hay bé, quan hay dân đều chết thê thảm. Sau này, khi đào mộ cải táng những nạn nhân trong cuộc thảm sát để mang lên Ba Đồn, người ta thấy có mũ mão, bài ngà của quan lại, và cả xác ngựa chết nạn. Cụ Phan tế rằng: “Thương mấy cụ khiên sơn nón dấy, nặng nợ cơm vua áo chúa, được da ngựa bọc thây mới sướng, trách vì sao tử bất thành danh”. Cái sự “tử bất thành danh” ấy âu cũng là số phận chung của hàng ngàn người chết nạn trong ngày Thất thủ Kinh đô.

Có thể nhắc đến tác phẩm Huế 1885 của nhà văn Thái Vũ, tường thuật lại cảnh tang thương của Huế vào ngày ấy. Trước hết là cuộc bắn giết không thương tiếc: “Chúng bắn xối xả, bắn vào những người đang chạy về phía chúng, quần nhau với chúng. Bắn vào những người đang chạy tỏa khắp nơi. Bắn vào đám đàn bà con trẻ đang hoảng hốt kêu khóc. Bắn vào những người đã chết. Nhà cháy. Cây cối sụp đổ…(Trang 318). Cuộc thảm sát đã dẫn đến hậu quả: “Xác người chết rải khắp đường khắp ngõ. Xác gục bên hồ, ngổn ngang bên bãi cỏ. Hầu như không nhà nào không có người chết. Cả Thành Nội đúng là một chiến địa… (Trang 328 & 335)”.

*

Từ ngày Thất thủ Kinh đô,
Bốn phương xiêu vẹo Hán Hồ khổ thay…


Người dân Huế đã tổ chức lễ tế Âm hồn, cô hồn, tưởng niệm chiến sĩ trận vong và đồng bào nạn vong trong chính biến Thất thủ Kinh đô. Trong cuộc phản công phủ đầu quân đội Pháp tại kinh thành Huế, quan quân nhà Nguyễn dưới sự lãnh đạo của phe chủ chiến, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết, đã chiến đấu rất ngoan cường, gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp. Khi địch quân tràn vào thành, các đội quân Đoàn Kiệt, Phấn Nghĩa, lực lượng cấm quân, hộ thành đã ra sức chống trả, bảo vệ triều đình và dân chúng. Sự thua thiệt về vũ khí và chiến thuật đã khiến các đội binh hy sinh rất nhiều. Nhiều tấm gương tướng sĩ nhà Nguyễn chiến đấu dũng cảm, cầm chân quân xâm lược ở các cửa thành; nhiều người bỏ mạng để đoàn xa giá xuất cung được an toàn ra Quảng Trị. Dân chúng nửa đêm nghe hỏa pháo nổ tứ tung, khói lửa ngập trời, hết thảy đều khiếp sợ dìu dắt nhau chạy loạn, dẫn đến kết cục đau thương cho hàng ngàn người.

Việc lập đàn tế các âm hồn tử nạn trong biến cố này là một nét văn hóa đặc trưng của người Huế. Lễ vật cúng ngày Thất thủ kinh đô bày biện tùy vào hoàn cảnh của từng gia đình, làng xóm nhưng tối thiểu phải có những lễ vật như hoa quả, cau trầu rượu chè, cháo thánh, cơm nắm, khoai, sắn, ngô, gạo muối, nhang trầm, hột nổ, áo binh, giấy tiền vàng bạc. Đặc biệt trong lễ cúng này, từ gia đình cho đến tập thể, phải nhớ có một thau lớn nước hoặc một thùng nước chè đầy và đốt một đống lửa đốt bên cạnh bàn thờ cúng. Người cúng tin rằng các âm hồn sẽ đến uống nước và sưởi ấm, vì nhiều người trong biến cố đã chết khát, chết thiêu và chết đuối lạnh lẽo dưới sông, hồ trong kinh thành.

Bài Văn tế Âm hồn Thất thủ kinh đô (23/5, Ất Dậu) của nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, có đoạn về các lễ vật rất cụ thể như sau:

“Bát cháo thánh hầu ấm thân cô độc, trên đường xa mù mịt bốn phương,
Tấm áo binh đỡ lạnh gót lạc loài, giữa lối thẳm âm u chín suối.
Nước chè nhạt cũng tình quyến luyến, khát vơi dần miệng kẻ thác oan,
Củ khoai cằn ấy nghĩa thân quen, no đôi chút bụng người chết mới.
Bông chuối cau trầu đủ thứ, lỡ khi cùng không thiếu vật tùy thân, Giấy tiền vàng bạc sót chi, gặp lúc ngặt có thừa đồ trao đổi.
Tội sớm tha, công thưởng lớn, nguyện cầu vía yên hàn vượt thoát, đêm âm ty ám ám lưới sương giăng,
Oan thì giải, nghiệp trả dần, cầu khấn hồn thanh thản ra đi, chiều dương thế mù mù luồng khói nổi.
Đốt nén nhang ngan ngát, mặc ngậm ngùi xin chớ ngó lui, Vẫy chén rượu thơm tho, dù ấm ức hãy mau bước tới.
Tâm thành lễ bạc, bàn phẩm vật trên dưới sơ sài,
Ngôn thiểu ý đa, câu ai điếu ngắn dài vụng dại”.


Trên bước đường tha phương, những âm hồn không nơi nương tựa được dân chúng dâng cúng lễ vật, với tấm lòng thành chia ngọt sẻ bùi, chua xót trước cơn can qua. Lễ vật giản dị, mang nhiều ý nghĩa tâm linh. Bát cháo thánh: “ấm thân cô độc”, tấm áo binh: “đỡ lạnh gót lạc loài”, nước chè nhạt: “khát vơi dần miệng kẻ thác oan”, củ khoai: “no đôi chút bụng”… Tất cả mang lại sự gần gũi, tình thương của người sống cho những âm hồn thác oan nơi chín suối. Cụ Phan Bội Châu trong Văn tế cô hồn ngày 23/5 ở kinh thành Huế cũng nói lên tinh thần đó:

“Sơ khác gì thân
Này hương, hoa, vàng, giấy, xôi, rượu
Gọi chút rằng:
Xin nếm lấy hơi
Xin nếm lấy lòng
Nghĩa đồng chủng đồng bào Thác xem như sống
Hỡi sinh linh các đấng Phù trợ cho Tổ quốc trường tồn. Ai tai, thượng hưởng!”


Người cúng quan niệm: “Sơ khác gì thân”, đây tấm lòng thành kính, biết ơn người dân Huế đối với các chiến sĩ bỏ thân vì Tổ quốc, xót thương đến đồng bào nạn vong trong chính biến Thất thủ Kinh đô, là “nghĩa đồng chủng đồng bào”. Tất cả dành lễ vật một lòng hướng đến vong hồn được thượng hưởng, bù đắp những mất mát tai ương và dành tất cả lời nguyện cầu siêu thoát.

Thế nên từ những tư gia trong nội thành cho đến những vùng quê xa xôi như Hương Trà, Phong Điền, Phú Lộc... đều có mâm cúng ngày 23/5. Mỗi xóm, mỗi khu phố cũng có lễ cúng chung, từ ngày xưa nhiều xóm, làng ngoại thành và nội thành của Huế còn lập miếu Âm hồn, tiêu biểu như miếu Âm hồn ở ngã tư Mai Thúc Loan - Lê Thánh Tông còn tồn tại cho đến ngày nay. Nhiều địa phương còn hình thành những tập thể gọi là “Phổ Hăm ba tháng Năm”, hàng năm đóng góp tiên bạc để tổ chức lễ cúng cô hồn một cách trọng thể. Hình thức “phổ” này không đâu trên đất nước Việt Nam tồn tại được như Huế, chỉ để dành cho việc làm lễ kỵ tập thể rất long trọng, thành kính. Từ mồng Mười cho đến hết tháng 5, khắp Huế đâu đâu cũng có những bàn lễ bày biện, nhang khói xông thơm, vàng mã cúng đốt âm hồn.

Ngoài tư gia, xóm làng, triều đình cũng tham gia vào việc tưởng niệm các nạn nhân thất thủ. 9 năm sau biến cố, vua Thành Thái, một vị vua có tinh thần yêu nước và kháng Pháp, triều đình Huế mới chính thức lập Đàn Âm Hồn vào năm 1894, tọa lạc tại phường Huệ An gần cửa Nhà Đồ để tế lễ hằng năm. Việc tế lễ do Ty Lý Thiện phụ trách và quan Đề đốc Hộ thành đứng làm chủ lễ. Từ đó, lễ cúng âm hồn được nâng lên gọi là lễ tế Âm hồn Thất thủ Kinh đô, bữa quảy cơm chung hay còn gọi là Lễ Truy niệm Chiến sĩ trận vong và đồng bào nạn vong năm Ất Dậu. Nhiều tư gia sau khi cúng có hình thức phóng sinh các loài chim, cá... để hồi hướng cho các nạn nhân xấu số. Một số làng xóm còn mời sư về làm đàn chẩn tế, trì tụng trang nghiêm.

Đàn Âm Hồn nay đã được quy hoạch, khoanh vùng và được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Ngày xưa, sau kỳ lễ tế, vào ngày 12 tháng 6 âm lịch có tục đi chạp mộ tập thể những người tử nạn trong ngày Thất thủ Kinh đô ở cồn mồ Ba Đồn. Đến nay, gần như tục đi chạp này không còn duy trì thường xuyên nữa.

Thất thủ Kinh đô năm 1885 là một minh chứng rõ nhất về đau thương, mất mát của Huế, minh chứng cho số phận một kinh đô trong lịch sử. Không đâu trên đất nước Việt Nam có ngày cúng 23/5, để nhang khói phủ khắp kinh thành. Huế cổ kính mà u buồn vì những kí ức khó thể xóa nhòa. Xin mượn câu văn tế của nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Vĩnh Ba để thắp nén tâm hương trước những vong linh của đại nạn đã qua 130 năm của Huế:

“Hơn thế kỷ trôi qua trước mắt, anh linh thiên cổ còn đây,
Mấy bi thương chất kín trong lòng, hương hỏa tứ thời ngát mãi”.


T.G  
(SH317/07-15)


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.