LA MAI THI GIA
Những ngày cuối năm, Sài Gòn bỗng dưng cũng khác, sáng sớm khi băng qua cầu Thủ Thiêm vốn đã quá quen, tôi khẽ rùng mình khi làn gió lành lạnh từ dưới sông Sài Gòn thổi lên, hơi sương nhè nhẹ tỏa ra bao bọc cả mặt sông mờ ảo, bất chợt thấy lòng ngẩn ngơ rồi lẩm bẩm một mình “Sài Gòn hôm nay khác quá!”
Ảnh: internet
Tôi ghé vào một quán café quen, mân mê trên tay Tôi là một kẻ khác của Nhật Chiêu, đọc lại thật chậm rãi từng trang một, rồi lại tiếp tục ngẩn ngơ, dun dủi thế nào mà hôm nay cả Sài Gòn, cả Chiêu cũng khác. Chiêu trầm tĩnh lạ kỳ bên một Sài Gòn bỗng dưng dịu dàng quá đổi.
Tôi là một kẻ khác là một tập thơ khác của một Nhật Chiêu rất khác, ông chế tác và biến hóa kỳ lạ với thứ ngôn ngữ thơ rất kỳ diệu của ông. Ông đã tác tạo nên hai thể thơ mới trong tập thơ này là thể Thơ giao lời kể và thể Thơ tượng quẻ. Tên tập thơ của ông được lấy ý từ một câu thơ của Rimbaud - một nhà thơ Pháp lừng danh thế giới: “Je est un autre” (Tôi là kẻ khác).
1. Trong Thơ giao lời kể, Nhật Chiêu điềm đạm xưng mình là con sâu cái kiến, là mây là suối, là vũng nước tù, là gái điếm, gái trinh, là kẻ thần kinh đi lạc… và ông từ tốn ngồi kể con sâu ấy đến từ đâu, ngọn cỏ dại mọc thế nào, và cô gái bán dâm kia có thật là gái điếm? Thơ giao lời kể là một trường ca gồm 36 khúc, mỗi khúc có thể được xem là một bài thơ riêng lẻ dù tác giả chẳng tách riêng nó ra và cũng chẳng đặt tựa cho từng bài. Nhưng mỗi khúc là một “kẻ khác”, dù 36 kẻ khác ấy đều cũng là “tôi”. Mỗi khúc được in thành hai trang, trang thứ nhất gồm 4 câu thơ giới thiệu “tôi là…” một kẻ khác nào đó, và trang thứ hai là khoảng từ 5 đến 15 dòng thơ kể về kẻ khác đó, tỉ mỉ hơn, tường tận hơn.
4 câu thơ đầu thường nhỏ nhắn, xinh xắn mà gợi cảm, dễ thương, ý tứ rõ ràng nhẹ nhàng để đợi đến khi tương giao với lời kể mới bộc lộ chiều sâu triết lý của bài thơ đó. Nếu lời giới thiệu là trái tim của bài thơ thì lời kể chính là ngọn lửa bùng cháy lên từ trong tim thắp sáng bài thơ ấy. Lời giới thiệu và lời kể tương giao, tương ánh, chiếu sáng lẫn nhau như cái rực hồng tương giao của sắc hoa và đôi má giai nhân trong “Nhân diện đào hoa tương ánh hồng” (thơ Thôi Hộ). “Tôi” trong 36 khúc thơ là một tôi với 36 cái ngã khác nhau, những cái ngã của tôi nằm đâu đó trong muôn loài, trong vạn loại chúng sinh có hình hài hay không hiện hữu. Tôi là gió mây trong vũ trụ, tôi là sâu kiến trong không gian, tôi là chiến binh, là thánh nhân, là Trương Chi, là Xuân Hương đã đến từ đâu đó trong chiều dài thời gian hiện hữu của con người. Và ở thời khắc này tôi là một đứa trẻ sơ sinh và cũng là một kẻ tự mình tước đi sự sống của mình. Ở đây tôi sinh ra và tôi tự sát.
“Tôi là một đứa bé
Chơi đá cuội làm nhà
Có vườn cho chim sẻ
CHO cả mẹ và hoa”
Và trong khúc thơ này, thi nhân kể lại rằng “một đứa bé đang chơi, và trong trò chơi em là chúa tể”. Em nặn đất làm nhà, làm vườn, nặn cả chim muông và sinh ra người mẹ. Trong sân chơi của mình hẳn nhiên em là chúa tể, sáng tạo cả muôn loài theo ý muốn của em và em chơi đùa với những thứ do mình tạo ra, đầy hân hoan và say đắm. Để có thể bước vào được “sân-chơi-linh-thiêng” này, người lớn “phải thu mình nhỏ lại”, nhỏ như vạn vật em vừa tạo ra và chấp nhận những luật chơi do em bày biện trong vương quốc nhỏ bé chứa đầy hoa, đầy chim muông, đầy mẹ, đầy Nàng Tiên của em. À, thì em là chúa tể, như đấng sáng thế tối cao của vạn vật. Chúa tạo ra vũ trụ, chúa tạo ra muôn loài trong sân chơi mênh mông và vĩ đại của chúa, có khác gì em bé với mớ đất nặn nhiều màu sắc trong khu vườn nhỏ xíu của em?
“Tôi là một anh hề
Tự cười mình mỏi mê
Một hôm bưng mặt khóc
Thiên hạ cười hả hê”
Anh hề ơi, nhiệm vụ quan trọng nhất của anh là chọc cười thiên hạ, cũng như thi nhân tôi phải viết nên những bài thơ lấy đi nước mắt của con người. Anh hề giỏi nghề là anh hề biết tự cười mình trước hết, biết sặc sụa trước những hành vi ngô nghê của chính mình mà mình đã thuộc nằm lòng, biết bất ngờ cười phá lên trước cái té ngã giả bộ vô tình mà mình đã diễn đi diễn lại cả nghìn lần. Anh cười được chính mình mới mong thiên hạ cười anh. Cũng như thơ tôi phải được viết nên từ nước mắt của tôi mới khiến mềm lòng thiên hạ, tôi khóc khi bày biện lòng mình vào thơ mới mong độc giả sụt sùi đồng cảm. Rồi cho đến khi anh hề khóc, bưng mặt trên sân khấu của đời mình, thiên hạ vẫn hả hê cười vì nghĩ rằng anh đang diễn, vì đã xác quyết rằng anh hề thì không biết khóc như độc giả vẫn đinh ninh, thi nhân thì không thể cợt đùa với thế gian này? Và anh hề đã chết, chết vì nỗi buồn của anh đã khiến người cười? hay chết vì tuyệt vọng khi đời này không còn người biết khóc, con người cứ mãi miết cười trong vô cảm thế sao?
Tôi là một con điếm
Đêm mưa ĐỨNG bên cầu
Tôi cùng mưa lấp liếm
Dồn lại những SẦU lâu
Trong Kinh Thánh có ghi lại câu chuyện về một nàng gái điếm bị đám đông đuổi đánh và ném đá, trong lúc trốn chạy nàng đã bắt gặp một người dang đôi tay che chắn mình. Trong lời kể của Nhật Chiêu, cô gái điếm lại là người chở che cho người khách lạ mình đầy thương tích đã tìm đến cô, người khách đã đến “từ hơn 2000 năm trước”. Ai là người có thể thỏa mãn được tất cả đàn ông nếu không phải là kỹ nữ? Ai là người có thể xoa dịu được nỗi đau của cả loài người?
2. Phần thứ hai của tập thơ là Thơ tượng quẻ, là một thể thơ được Nhật Chiêu chế tác dựa trên ý tưởng từ Kinh Dịch, mỗi bài thơ là một biểu tượng ứng với mỗi quẻ trong Kinh Dịch về cả mặt hình thức lẫn chủ đề. Nếu mỗi tượng quẻ trong Kinh Dịch bao gồm 6 hào âm dương thì mỗi bài thơ của ông bao gồm 6 câu thơ liền mạch hay ngắt nhịp tương ứng với các hào âm (- -) hay hào dương (-) trong quẻ đó. Từ 6 hào âm và dương đó, Nhật Chiêu đã sáng tạo nên những bài thơ gồm 6 câu với cách trình bày ngắt nhịp trong câu thơ điền đầy khuôn hình thức của từng quẻ và mỗi bài thơ là sự mô phỏng chủ đề ý nghĩa của quẻ đó. Ông đặt chữ của ông vào trong những khuôn hình quẻ tượng, không dư một chữ, không thừa một nét nhưng ý nghĩa của câu từ cứ ào ạt tuôn ra.
Mưa đến đây mưa đến đây
Và mưa mang theo điệu hát
Mưa còn bay đất còn ngây
Ai như dại ai như say
Ngực nàng mọng môi mưa đầy
Nàng một cõi mưa nghìn tay
(Mưa và đất - quẻ tỉ (kết giao))
Trong Kinh Dịch, quẻ tỉ được tạo nên bởi sự kết giao của quẻ Khảm và quẻ Khôn, thượng Khảm hạ khôn, nước ở trên đất ở dưới. Và bài thơ của Nhật Chiêu cũng được tạo nên bởi sự kết giao của mưa và đất, khi mưa đến mang theo điệu hát, khi mưa còn bay thì đất vẫn còn say, mưa rơi xuống đất, thấm sâu vào lòng đất cho hoa trái sinh sôi, cho vạn vật nảy nở. Như đàn ông thấm sâu vào đàn bà cho thế giới được sinh ra. Mưa còn rơi, đất còn đợi để tái sinh, đàn ông còn chinh phục mạnh mẽ, đàn bà còn yêu còn say. Nàng một mình một cõi, đợi cả vũ trụ rót vào nàng sự sống và luân chuyển trong lòng nàng để được tái sinh trong những hình hài tươi mới căng tràn.
Đưa bóng mình, đến chân trời
Đưa bóng mình lên đỉnh núi
Đưa bóng mình ra xa khơi
Rồi một ngày quay bước lại
Đưa chiếc bóng về tinh khôi
Cười vang trong cuộc quy hồi
(Sấm rền trong đất - Quẻ phục (quay về))
Quẻ phục được tạo thành bởi sự kết giao giữa quẻ khôn và quẻ chấn, bài thơ là sự giao kết và lẫn khuất vào nhau giữa tiếng sấm và lòng đất, tạo nên âm thanh rền vang như lời kêu gọi cho một cuộc quy hồi. Tiếng sấm rền trong đất gợi nên âm thanh của sự sống, là âm thanh của sự trở lại và hồi sinh. Ca dao Việt Nam có câu “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”, tiếng sấm báo hiệu trời đang chuyển mùa và mang mưa tới, cho cây lúa rộn ràng sinh trưởng tốt tươi. 5 câu thơ đầu trong bài thơ đang ngắt nhịp âm, như cái trúc trắc phong trần gió bụi của cuộc đời, của những linh đinh trong hành trình một con người “đến chân trời”, “lên đỉnh núi” và “ra xa khơi”, rồi bất chợt quay về. Bỗng câu thơ cuối liền nhau trong một nhịp dương xuyên suốt và mạnh mẽ, như tiếng cười vang của cuộc hồi sinh đang quay trở lại, nhịp thơ trải dài vang xa, xóa hết những trúc trắc gian nan trong hành trình quay về của con người mang bóng mình đi muôn nơi.
Thơ tượng quẻ của Nhật Chiêu không dễ đọc, không dễ hiểu và cũng chẳng dễ lý giải những lời triết lý về đời người hay đời vũ trụ, về nhân loại hay về cả càn khôn. Tôi tập tành đọc thơ ông, tập tành hiểu thật giản đơn những gì đang hiển hiện trong từng câu chữ với sự háo hức mê say của một con người vốn rất mê thơ. Lối sáng tạo thơ này của Nhật Chiêu dù mới được công bố ít lâu nhưng cũng đã nhận không ít lời trầm trồ tán thưởng: “Với thể thơ tượng quẻ này, Nhật Chiêu đã khiến cho người đọc phải sửng sốt về sự sáng tạo đầy mới mẻ và thú vị khi vận dụng hình thức và ý nghĩa của các quẻ trong Kinh Dịch để đưa vào đấy chất thơ đầy triết lý. Đối với ông, sự sáng tạo là nhìn về cái cũ bằng một cái nhìn mới, cái mới không phải là cái chưa từng có mà là cái đã bị thời gian che phủ. Chính vì vậy, ông tìm về Kinh Dịch để từ đó sáng tạo thơ tượng quẻ” (Hoài Mai). Hay “Thể thơ độc đáo này đã nhận được sự tán dương và hưởng ứng sôi nổi từ các nhà phê bình văn học. Chính từ sự phá cách, tìm tòi độc đáo, cùng với sự uyên bác và tài hoa, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã mang đến thơ một phong vị mới lạ, hấp dẫn nhưng rất bác học.” (Hoài Mai).
Và tôi cũng vậy, đã bị thơ Nhật Chiêu quyến dụ, loay hoay đi tìm một tôi khác trong những tạo tác của ông.
L.M.T.G
(TCSH325/03-2016)
VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.
NGUYỄN VĂN HOA Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...
KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.
HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.
TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.
TRẦN THUỲ MAI(Đọc tập thơ "Quê quán tôi xưa" của Trần Hoàng Phố, NXB Thuận Hoá - Huế 2002)
NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.
VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)
NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.
YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
VỌNG THẢO... " Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút linh thiêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước... Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi...".
VŨ NGỌC KHÁNH.(Đọc sách Phan Bội Châu- Toàn tập do Chương Thâu sưu tầm, biên soạn. Nhà xuất bản Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây- 2000)
VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.
NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.
TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001
LÊ THỊ MỸ ÝĐọc tập truyện ngắn "NGƯỜI ƠI" - Lê Thị Hoài - NXB Thuận Hoá 2001
HỒNG DIỆUVâng. Thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có thơ viết về Huế và thơ viết về những nơi khác.
HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)
UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).
LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.