Từ “Tín hiệu một vì sao” đến “Hẹn gặp lại Sài Gòn”

08:30 19/05/2020

PHẠM HỮU    

Bộ phim truyện đầu tiên về tuổi trẻ Chủ tịch Hồ Chí Minh được quay tại Huế, Phan Thiết, Sài Gòn vào cuối năm 1989, đầu năm 1990; khởi chiếu tháng 5/1990 trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Đầu tháng 12/1989, phim được khởi quay tại Huế. Vì sao là Huế chứ không phải là Làng Sen xứ Nghệ?

Thời niên thiếu ở Huế, Nguyễn Tất Thành đã trải 10 năm cay đắng trong nhiều mối quan hệ gắn liền với nỗi đau mất nước. Nơi đây, Nguyễn Tất Thành đã mang trên đôi vai bé nhỏ của mình gánh nặng gia đình. Nơi hằn sâu trong ký ức của Người những kỷ niệm không bao giờ mờ phai. Cho đến ngày Người từ biệt chúng ta đi về thế giới bên kia, “Hằn trong đôi mắt của Người/ Còn nguyên vẹn một khoảng trời phương Nam” (Thu Bồn).

Cuối thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ 20, đất nước đang chìm trong đêm dài nô lệ, muôn dân sống trong đói khổ, lầm than. Những ông vua yêu nước lần lượt bị đi đày. Giữa lúc ấy biết bao người đang cố tìm chiếc chìa khóa vàng để mở cánh cửa sắt của dân tộc đang bị giam cầm. Đó là những bậc sĩ phu với tấm lòng yêu nước, thương dân đầy nhiệt huyết nhưng đã hết sứ mệnh lịch sử. Có người thổi bùng lên ngọn lửa Cần Vương khi nhà vua đã từ bỏ ngai vàng điện ngọc ra đi. Có người tìm đến lòng nghĩa hiệp của người bạn đồng màu da. Có người cầu mong lòng nhân từ bác ái của nền văn minh phương Tây để mở mang dân trí, đợi thời... Trên con đường đi tìm chiếc chìa khóa vàng ấy, họ lần lượt ngã xuống và chỉ để lại những tên tuổi “đẹp một thời”!

Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đó và trong mối liên hệ với truyền thống quá khứ, với bạn bè, quần chúng lao khổ. Cảm phục trước những tấm lòng yêu nước, thương dân của các thế hệ cha anh nhưng Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận thức được vấn đề là phải đi tìm con đường khác, vượt ra ngoài khuôn mẫu của người trí thức phong kiến; phải có sự nhạy cảm, nắm bắt và xử sự theo xu thế thời đại, phù hợp với quy luật lịch sử.

Cuộc đời học sinh của Nguyễn Tất Thành cũng bắt đầu ở Huế. Có điều, ở người học sinh đặc biệt này là ngoài những kiến thức lĩnh hội trên lớp còn có cả sự ham mê học hỏi nhiều hơn trong trường đời. Và trong đời thường bình dị, con người ấy đã sớm bộc lộ những tâm tư, chí hướng khác thường. Các phòng học ở trường Pháp Việt lúc đó đều có câu khẩu hiệu Tự do, bình đẳng, bác ái. Nội dung giáo dục ở các trường Pháp Việt thường ca tụng nền văn minh nước Pháp, tư tưởng tiến bộ của người Pháp. Thành Thái là ông vua có tinh thần chống Pháp, muốn mở trường dạy cho dân mình biết văn minh, văn hóa phương Tây để canh tân đất nước, độc lập với nước Pháp. Các thầy giáo người Pháp không hẳn ai cũng mang tư tưởng thực dân, đế quốc. Đội ngũ giáo viên Việt Nam nhiều người rất giỏi và rất mẫu mực, trong đó có những thầy trực tiếp dạy và rất gần gũi với trò Thành như thầy Hoàng Thông, thầy Lê Văn Miến là những nhà giáo đầy tinh thần dân tộc và giàu lòng yêu nước, từng ra mặt chống đối người Pháp. Vì vậy, trường Tiểu học Đông Ba, rồi trường Quốc Học đã đáp ứng khá nhiều điều mà Nguyễn Tất Thành khao khát tìm hiểu, hấp dẫn Nguyễn Tất Thành về một xã hội có Tự do - bình đẳng - bác ái. Từ đó gợi cho Nguyễn Tất Thành khát vọng qua Pháp để tìm hiểu, khám phá những bí ẩn đằng sau những khẩu hiệu, những tư tưởng tiến bộ đó. Và ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành đã rời cảng Sài Gòn qua nước Pháp với chân phụ bếp trên tàu Latouche-Tréville.

Đó chính là những điều lý thú mà ở phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn”, tác giả kịch bản văn học Sơn Tùng và đạo diễn Long Vân đã lựa chọn khai thác những chi tiết, sự kiện tiêu biểu nhất trong cuộc đời thực nhân vật, đưa lên màn ảnh để người xem dễ dàng phát hiện ra những tín hiệu của một vì sao.

Lúc đầu kịnh bản văn học và kịch bản phân cảnh đều để tên là “Tín hiệu một vì sao”, tuy nhiên cơ quan chủ quản đơn vị sản xuất phim muốn đặt tên khác. Chưa thống nhất được tên phim nhưng phim vẫn được khởi quay vì thời gian về đích chỉ còn khoảng 5 tháng. Trong quá trình quay phim tạm dùng tên “Tất Thành - Hồ Chí Minh”. Tiêu đề băng rôn gắn trên xe là ĐOÀN LÀM PHIM “TẤT THÀNH - HỒ CHÍ MINH”.

Tác giả kịch bản và đạo diễn phim đều nhấn mạnh: Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Huế là nơi phát tín hiệu chứ chưa phải là ngôi sao. Các nhà làm phim đã chú ý khắc đậm những nét tính cách riêng của Nguyễn Tất Thành. Trong suốt cuộc đời học sinh ở Huế, và trong suốt cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước cứu dân: từ Huế vào Phan Thiết, rồi Sài Gòn là sự phát triển thống nhất về tính cách và tư tưởng của Nguyễn Tất Thành, là tín hiệu của vì sao Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tỏa sáng ở Paris, để sau này trở thành vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, của phong trào cộng sản quốc tế, một danh nhân văn hóa thế giới - người là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bản thân cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là một nguồn cảm hứng vô tận. Bên cạnh đó, Người có cả một tuổi thơ gắn liền với xứ Huế thơ mộng, với sông Hương núi Ngự hùng vĩ, Hoàng thành rực rỡ vàng son, lăng tẩm tráng lệ, chùa chiền uy nghi yên tĩnh, phủ thờ trang nghiêm. 100 năm sau (1989), thiên nhiên, cảnh vật và con người xứ Huế vẫn hội được nhiều yếu tố để dựng lại bối cảnh phim. Đó là các yếu tố cơ bản, đã kích thích các nghệ sĩ đam mê sáng tạo nghệ thuật.

Để dựng lại cuộc đời của một bậc vĩ nhân, đạo diễn Long Vân đã bắt tay chuẩn bị cho công việc làm phim từ 3 năm trước đó. Anh tìm ra Nguyễn Tiến Hợi, người có ngoại hình rất giống Bác Hồ thời trẻ trên sàn tập vở “Đêm trắng” của Đoàn kịch nói Quân khu 2. Quê ở xứ Nghệ, sinh trưởng ở Thủ đô. Tiến Hợi ngoài diện mạo, anh có giọng nói rất giống giọng Bác. Vì vậy mà có rất nhiều thư yêu cầu Đài Tiếng nói Việt Nam phát lại nhiều lần vở kịch “Đêm trắng” để mọi người được nghe “tiếng Bác”. Cũng do vậy trong phim, Tiến Hợi có thêm nhiệm vụ lồng tiếng nhân vật Tất Thành. Nghệ sĩ Đức Chung (Đoàn kịch thanh thiếu nhi Hà Nội), người có giọng nói giống Bác nhất, được chọn lồng tiếng cụ Nguyễn Sinh Sắc.

Cũng ở Đoàn kịch Quân khu 2, cách đó 2 năm đạo diễn Long Vân phát hiện ra Thu Hà, một diễn viên trẻ đẹp và hồn nhiên đóng vai út Vân sau khi cô xuất hiện trên màn ảnh lần đầu tiên trong phim “Đề Thám”. Bá Lộc, Lan Hương trong vai cụ Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan được chọn trong quá trình làm phim “Người không mang họ”... Tác giả kịch bản và các nhà làm phim hiểu rằng, quyết định thành công của bộ phim là ở chỗ phải dựng lại được bối cảnh lịch sử để cho nhân vật xuất hiện, bộc lộ tính cách, ở ngoại hình - diện mạo, và tài năng diễn xuất của diễn viên.

Ngoài tình cảm, trách nhiệm của Đảng bộ nhân dân Thừa Thiên Huế và thành phố Hồ Chí Minh, đoàn làm phim đã nhận được sự ủng hộ nhiệt thành của các địa phương khác, của bạn bè gần xa, trong và ngoài nước. Anh Nicôlas Coruet, một phóng viên người Pháp đang làm việc ở thành phố Hồ Chí Minh đã ra Huế đóng vai Khâm sứ Trung Kỳ tốn kém khá nhiều, lại bị trễ ngày về vì trở ngại kỹ thuật trong quá trình quay vẫn vui vẻ, thoải mái. Các bạn ở Lãnh sự quán Liên Xô (cũ) tại Đà Nẵng phải “quá tam ba bận” vào ra, tham gia làm phim cũng không hề có một yêu cầu gì về đãi ngộ vật chất. Để có voi, ngựa trong cảnh quay ngày đại triều và cảnh vua Hàm Nghi đi đày, tỉnh Quảng Trị đã đưa vào 6 con ngựa, và cử ông Nguyễn Quang Tám, Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch UBND huyện Hướng Hóa sang mượn voi của các bạn Lào. Anh Tiêng Phết Thìn Sê pôn, Giám đốc Xí nghiệp liên doanh khai thác lâm sản tỉnh Savanakhet, cho đoàn làm phim mượn một con voi kéo gỗ đã thuần phục mà không hề có đòi hỏi gì. Trong thư gửi Tỉnh ủy Quảng Trị, anh viết: “Để đóng góp cho công việc làm phim nhằm thể hiện tình cảm của chúng tôi đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và với tỉnh Quảng Trị, chúng tôi xin đóng góp - góp chứ không bắt buộc đoàn làm phim phải thuê mướn theo giá trị ngày công hoặc hao mòn voi”.

Đoàn làm phim có một người phụ trách chụp ảnh từ đầu chí cuối nhưng đạo diễn Long Vân vẫn mời tôi xem và ghi hình tất cả các cảnh quay tại Huế, trong thời gian gần hai tháng.

Thực hiện bộ phim truyện “Hẹn gặp lại Sài Gòn” hồi ấy không còn riêng trách nhiệm của đoàn làm phim mà đã trở thành tình cảm và trách nhiệm chung của cả nước, của bạn bè gần xa với tình cảm ngưỡng mộ và kính yêu Người. Trong đó con người và vùng đất Huế có quyền tự hào. Trong một bài viết gửi đăng báo Thừa Thiên Huế, ông Hoàng Hà, giám đốc nghệ thuật phim, đã viết: “Cám ơn Huế đầu thế kỷ cưu mang Nguyễn Tất Thành, cuối thế kỷ lo cưu mang bộ phim truyện “Tất Thành - Hồ Chí Minh”.  

Bức ảnh này tôi chụp ngày 25/12/1989 ở đèo Hải Vân, khi đoàn làm phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn” đang thực hiện những cảnh quay ở Huế. Đây là hình ảnh gia đình ông Nguyễn Sinh Sắc vượt Đèo Ngang trên đường thiên lý lai kinh. Vào Huế, ông vừa là một Giám sinh (học sinh trường Quốc Tử Giám), vừa là một ông đồ Nghệ - để kiếm thêm đồng ra đồng vào, giảm tải gánh nặng cho người vợ yêu quý ngày ngày tảo tần bên khung cửi “nuôi đủ hai con với một chồng”! Câu chuyện có thật trong lịch sử là năm 1895.

Bà Hoàng Thị Loan sinh năm Mậu Thìn (1868) tại làng Hoàng Trù, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nên duyên với ông Nguyễn Sinh Sắc, tại làng Chùa, bà sinh được 3 người con: Nguyễn Thị Thanh (1884), Nguyễn Sinh Khiêm (1888), Nguyễn Sinh Cung (1890). Năm 1895, bà gửi con gái lại cho mẹ rồi cùng chồng và hai con trai trẩy kinh. Tại Huế, bà làm nghề dệt vải, nuôi con và nuôi chồng theo học trường Quốc Tử Giám, chờ khoa thi Hội. Bà là một mẫu mực của người phụ nữ Việt Nam: cả đời lam lũ, tần tảo nuôi con, chăm lo cho chồng theo đòi khoa cử và sự nghiệp.

Cho đến phút lâm chung đi vào cõi vĩnh hằng, người mẹ ấy chưa một lần nghĩ rằng mình đã sinh ra một vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, người làm thay đổi diện mạo của đất nước.
 

Bức ảnh này tôi chụp ngày 25/12/1989 ở đèo Hải Vân, khi đoàn làm phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn” đang thực hiện những cảnh quay ở Huế. Đây là hình ảnh gia đình ông Nguyễn Sinh Sắc vượt Đèo Ngang trên đường thiên lý lai kinh. Vào Huế, ông vừa là một Giám sinh (học sinh trường Quốc Tử Giám), vừa là một ông đồ Nghệ - để kiếm thêm đồng ra đồng vào, giảm tải gánh nặng cho người vợ yêu quý ngày ngày tảo tần bên khung cửi “nuôi đủ hai con với một chồng”! Câu chuyện có thật trong lịch sử là năm 1895.

Bà Hoàng Thị Loan sinh năm Mậu Thìn (1868) tại làng Hoàng Trù, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nên duyên với ông Nguyễn Sinh Sắc, tại làng Chùa, bà sinh được 3 người con: Nguyễn Thị Thanh (1884), Nguyễn Sinh Khiêm (1888), Nguyễn Sinh Cung (1890). Năm 1895, bà gửi con gái lại cho mẹ rồi cùng chồng và hai con trai trẩy kinh. Tại Huế, bà làm nghề dệt vải, nuôi con và nuôi chồng theo học trường Quốc Tử Giám, chờ khoa thi Hội. Bà là một mẫu mực của người phụ nữ Việt Nam: cả đời lam lũ, tần tảo nuôi con, chăm lo cho chồng theo đòi khoa cử và sự nghiệp.

Cho đến phút lâm chung đi vào cõi vĩnh hằng, người mẹ ấy chưa một lần nghĩ rằng mình đã sinh ra một vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, người làm thay đổi diện mạo của đất nước.



P.H  
(TCSH375/05-2020)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Thông tin từ Nhà hát Tuồng Việt Nam cho hay, đơn vị này đang tiến hành phục dựng vở tuồng lịch sử “Tiếng gọi non sông” của tác giả Kính Dân.

  • Đoàn kịch nói Kim Cương đã thành công rực rỡ và Kim Cương “trở thành người nghệ sĩ của nhân dân”. Nhưng bà đã dũng cảm rời xa ánh đèn sân khấu mà chọn công việc từ thiện, phục vụ người nghèo một cách thầm lặng.

  • Sau NSND Bảy Nam, dòng họ nghệ thuật này còn một nữ nghệ sĩ danh tiếng lẫy lừng nữa, chính là NSND Kim Cương. Lẫy lừng bởi Kim Cương đi tiên phong trong việc thành lập bộ môn kịch nói ở miền Nam, làm rạng rỡ cho sân khấu với hàng loạt vở diễn để đời.

  • NSND Bảy Nam đã để lại hàng loạt chân dung bà mẹ trên sàn diễn mà không ai thay thế nổi. Bà diễn như không. Những cảnh đời trên sân khấu cứ chân thật và giản dị nhưng làm người xem phải rúng động con tim.

  • NSND Bảy Nam là em ruột của nghệ sĩ Năm Phỉ, là mẹ của NSND Kim Cương. Bà không chỉ là diễn viên xuất sắc mà còn là một “bà bầu” máu lửa, nhưng hầu như suốt cả đời phải vất vả chống chèo lo cho cả gia đình.

  • Ông Nguyễn Ngọc Cương có ba người vợ, người nào cũng lẫy lừng tiếng tăm. Người vợ thứ 2 là cô đào Năm Phỉ tài sắc lạ lùng, từng sang Pháp chinh phục khán giả, và đã ra đi như một cành hoa mong manh…

  • Bà Ba Ngoạn sinh con trai là Nguyễn Ngọc Cương, sau này trở thành một trong những người tiên phong gầy dựng cải lương trong buổi đầu hình thành. Ông cũng là người đào tạo ra những ngôi sao Năm Phỉ, Bảy Nam, Ngọc Sương, Thanh Tùng...

  • Đã 10 năm NSND Bảy Nam qua đời (2004), để lại nỗi tiếc thương khó phai trong lòng NSND Kim Cương - con gái bà -  và người hâm mộ. Để tưởng nhớ cây đại thụ của cải lương và kịch nói miền Nam, chúng tôi xin phác họa những ngày tháng quang vinh trong dòng họ nghệ thuật của bà.

  • Xây dựng nhà lưu niệm, thiết kế lăng mộ, đúc tượng đồng…, nhiều nghệ sĩ muốn lưu lại dấu tích của mình cho hậu thế

  • Một khi sự giả dối tồn tại trong cuộc sống gia đình, trong tình yêu lứa đôi thì hạnh phúc sẽ không thể trọn vẹn, bền vững. Và sai lầm trong nhất thời dễ dàng dẫn dắt những niềm vui và hạnh phúc của cuộc đời con người đến với những khổ đau, chia ly, mất mát… Đó là một thông điệp ý nghĩa về giá trị cuộc sống và hạnh phúc gia đình trong kịch mới Lạc giữa phố người (tác giả, đạo diễn: Bùi Quốc Bảo), vừa công diễn tại sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh.

  • HOÀNG DIỆP LẠC


    Văn hóa xi nê
    Có thể nói rằng cinema (điện ảnh hay còn gọi là chiếu bóng) là món ăn hấp dẫn cho nhãn căn và nhĩ căn của một thời.

  • E.GRAS
    (Chủ sự Tài chính An nam, Huế 1910)

    Vào một buổi tối ở vùng Gia Hội, cuối con đường hẹp đầy ổ gà, chỉ có ánh sáng lờ mờ của những cây đèn tim ở bọng của những túp nhà tranh An nam, và đây là một ngôi nhà lớn hơn, sau dãy hàng rào bông bụt và chè tàu dưới rặng tre sẫm bóng.

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Đêm xem phim Hà Nội mùa đông năm 46 vừa rồi là lần thứ 3 tôi xem phim này. Tôi không còn nhớ cảm xúc của tôi 2 lần xem trước. Nhưng lần này, không chỉ một lần nước mắt tôi trào ra. Tôi cầm máy gọi Đặng Nhật Minh: “Cảm ơn anh vô cùng. Vô cùng!”

  • SÂM THƯƠNG        

    Bối cảnh lịch sử Việt Nam thời Điện ảnh du nhập
    Sau rất nhiều những cuộc tranh cãi kéo dài, cuối cùng tất cả những người hoạt động điện ảnh khắp nơi trên thế giới đã nhất trí coi ngày 28/12/1895 mà anh em Auguste và Louis Lumière chiếu phim trong nhà hầm của Quán cà phê số 14 đại lộ Capucines, Paris là NGÀY KHAI SINH của điện ảnh.

  • VŨ NGỌC LIỄN

    Vụ án này khởi đầu từ vở tuồng Quần tiên hiến thọ của hai tác giả: Minh Mạng và Nguyễn Bá Nghi (1). Người phê bình tác phẩm là Vương Hữu Quang.

  • LGT: Ngày 19/5 vừa qua, nghệ sĩ Ngọc Bình đã vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân (NSND). Cùng với Nghệ sĩ Bạch Hạc, anh là một trong hai NSND đầu tiên của nghệ thuật biểu diễn tại Huế. Trong sự nghiệp hơn 40 năm qua, nghệ sĩ Ngọc Bình đã đóng trên 70 vai diễn cả kịch và điện ảnh, đồng thời là đạo diễn dàn dựng trên 100 vở bao gồm kịch và ca múa nhạc và giành được nhiều giải thưởng cao quý về nghệ thuật…

  • XUÂN HẢI

    (Kịch 1 Màn 1 Cảnh)

  • Vừa qua, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đã tổ chức giám sát tình hình hoạt động và thi hành chính sách pháp luật về nghệ thuật biểu diễn (NTBD) tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Thừa Thiên Huế và Gia Lai; tổ chức lấy ý kiến giới chuyên môn và các nhà quản lý. Ủy ban cũng đã làm việc với lãnh đạo các Bộ: Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL), Nội vụ, Tài chính về tình hình hoạt động và thi hành chính sách pháp luật về NTBD. Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với GS Nguyễn Minh Thuyết, đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Ủy ban sau khi ông tham gia đoàn giám sát nói trên.

  • MINH HẰNGTừ trước đến nay vấn đề không ngừng nâng cao chất lượng nghệ thuật là một yêu cầu hàng đầu, thường xuyên và nghiêm túc đối với anh chị em văn nghệ sĩ. Thông qua chất lượng nghệ thuật chúng ta có thể đánh giá sự trưởng thành của mỗi đơn vị nghệ thuật trên các mặt chính trị, tư tưởng và khả năng chuyên môn của một tập thể nghệ sĩ.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrong buổi tọa đàm giữa các nghệ sĩ Điện ảnh Việt Nam với văn nghệ sĩ trí thức Huế vừa rồi, nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã chuẩn bị sẵn một tham luận có tiêu đề rất "gây sự" là Khoảng cách giữa điện ảnh Việt Nam với khán giả nhưng điều đó lại được "giải tỏa" ngay khi anh nhấn mạnh - trừ cuộc liên hoan lần này.