LÊ QUANG THÁI
Sáng tác Văn tế cô hồn hay Văn tế thập loại chúng sinh thể hiện lòng hiếu nghĩa đối với tiên nhân, người thân và kể cả đồng bào, nó dựa vào nguồn cội tri ân sâu thẳm.
Ảnh: internet
1. NGUỒN GỐC
Rằm tháng bảy là tết Trung Nguyên, ngày giải thoát vong hồn, còn được gọi là ngày xá tội vong nhân. Nói về nguồn gốc của ngày Tết này, Lê Quý Đôn đã viết:
“Các đạo sĩ có phép tiêu tai giải ách, họ dựa vào thuật số âm dương ngũ hành, suy tính niên vận của người ta, rồi viết ra như cách thức biểu sớ: “Tâu lạy thiên tào, xin ngài giải ách”. Thế gọi là dâng sớ. Đến nửa đêm bày cổ bàn, nem rượu, bánh trái, lễ vật dưới trăng sao mà dâng cúng Thiên Tào Thái nhất (đại đế), Ngũ kinh, Liệt tú; cũng làm bài trạng như cách dâng sớ, gọi là làm lễ Tiếu (lập đàn cầu đảo). Lại lấy gỗ làm ấn, khắc chữ nhật nguyệt tinh thần; rồi hà hơi đóng dấu vào bệnh nhân, cũng có nhiều người khỏi. Đời sau làm trai đàn là bắt nguồn từ đây”1.
Để làm rõ vì sao tết Trung Nguyên được gọi là lễ Vu Lan, nhà bác học tinh thông Phật học Lê Quý Đôn đã viết rõ về nguồn gốc của lễ này như sau:
“Tết Trung Nguyên, người ta để đồ mã và giấy ngũ sắc vào cái giường ba chân, như cái đèn nồi, gọi là Vu Lan bồn treo áo giấy, rồi lấy đóm đốt”.
Thích Thị Yên Lãm: Tiếng Phạn nói “Vu Lan bồn” như tiếng Hán nói
“Cửu đảo huyền” (cứu người bị treo ngược)”2.
![]() |
Ảnh: internet |
Theo Vu Lan Kinh: Đại đệ tử của Đức Phật là Mục Kiền Liên vì bất nhẫn khi thấy mẹ bị đọa vào đường ngục quỷ, chịu khổ, nên Ngài thưa hỏi Phật cách giải cứu. Phật dạy vào ngày Rằm tháng 7 là ngày chúng Tăng tự tứ hãy dùng thức ăn ngon quý, ngũ quả cúng dường Phật tăng trong 10 phương thì mẹ ông sẽ được thoát li khổ nạn. “Vu Lan” nghĩa là “đảo huyền”.
Nhà thơ Lục Du (1125 - 1210) cho biết thời bấy giờ đã có tục làm cổ chay cúng gia tiên. Mốc thời điểm này tương ứng trong khoảng cuối đời vua Lý Nhân Tông đến đời vua Trần Thái Tông của nước Đại Việt.
Đây là một tập tục lâu đời ở nước ngoài, còn ở nước ta thì sao? Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa thu, tháng 7, năm Giáp Dần, niên hiệu Thiệu Bình thứ 1 (1434); Ngày 15, mở hội Vu Lan, tha tù tội nhẹ 50 người, cho ai sử dụng kinh 220 quan tiền”3.
Như thế thì ít nhất lễ Vu Lan đã trở thành quốc lễ của nước ta khoảng 580 năm. Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên (1908 - 1975), tác giả sách Văn minh Việt Nam bằng Pháp ngữ, xuất bản năm 1944; sách có đoạn viết rõ ràng hơn: “Hội lễ dân gian của Đạo Phật là ngày rằm tháng Bảy âm lịch. Đây là một kiểu ngày lễ của những người chết, trong ngày đó, ở địa phủ, do lòng từ bi của chư Phật, một cuộc xá tội lớn, được thực hiện, các ngục được mở và nhiều vong có tội tỏa đi khắp thế gian. Các gia đình đi chùa cúng và tụng Kinh để giải thoát cho hồn của thân nhân mình4.
Nguyễn Văn Huyên phác thảo lại cảnh tượng Hội lễ dân gian của Phật giáo băng cách miêu tả như là “hiện tượng ngày Rằm tháng Bảy âm lịch”, chớ không đi xa hơn là truy nguyên nguồn gốc để giải thích câu ca “Tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân” được lưu truyền trong dân gian vào những năm cuối của thập kỷ 30 thuộc thế kỷ trước.
Kết hợp giữa hai yếu tố truyền thông mang tính cách kinh điển Phật giáo với hiện tượng lễ hội trong xã hội Việt Nam năm 1934; giữa lúc phong trào chấn hưng Phật giáo đang chủ xướng tìm về cái uyên nguyên, tinh anh của Văn hóa Phật giáo đang được cổ xúy canh tân.
Theo dòng chảy lịch sử - văn học nước nhà, ngày rằm xá tội vong nhân đã trở thành quốc lễ Vu Lan, nay đã trở thành VU LAN THẮNG HỘI diễn ra từ làng quê, chùa quê cho đến thành đô khắp nước, thể hiện lòng hiếu thảo đối với tiên nhân và người thân đã mất.
![]() |
Văn tế Cô hồn - Ảnh: internet |
2. THẬP GIỚI CÔ HỒN QUỐC NGỮ VĂN
Xem chừng giữa Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (十誡菰魂國語文)với Văn tế thập loại chúng sinh (文祭十類眾生) có nhiều nét tương đồng và khác biệt nhau tuy rằng cả hai danh phẩm này đều bắt nguồn từ Du gia khoa nghi.
Theo Nguyễn Lang, (tác giả bộ sách Việt Nam Phật giáo sử luận), thì Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là một áng Văn Nôm cổ gồm có một đoạn mở đầu và mười đoạn nói về mười giới cô hồn: 1- thiền tăng; 2- đạo sĩ; 3- quan liêu; 4- nho sĩ; 5- thiên văn địa lý; 6- lương y; 7- tướng quân; 8- hoa nương; 9- thương cô; 10- đãng tử.5
Học giả Trần Văn Giáp cho biết 2 điều đáng lưu ý qua sách Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I tại 2 trang 218 và 219 như sau:
Chi tiết 1: “Hiện nay thư viện khoa học Trung ương còn lưu tàng được một số sách” gọi là Thiên Nam dư hạ tập (ký hiệu A.334), gồm nhiều quyển, đóng 10 tập, từ tập sớ IX chép trên giấy hẹp (khổ 10 x 28) tờ 2 trang, trang 8 dòng, dòng 22 chữ, chữ viết đá thảo có vẻ xưa, còn thì toàn là sách mới chép lại bằng giấy kinh (khổ 22 x 31) tờ 2 trang, trang 9 dòng, dòng 22 chữ viết chân phương, không ghi rõ chép lại từ đâu và nguyên bản mượn của người nào”6.
Chi tiết 2: “Tập VI, 122 tờ..., tờ 46 - 55: Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (Lê triều Thánh Tông ngự soạn) (十誡菰魂國語文梨朝圣涼御撰) (?), không thêm Nguyễn Trực phụng bình như các bài khác.
Mười điều dạy bảo các cô hồn ấy như sau: 1- Thứ nhất thiên tăng rằng; 2- Thứ hai giới đạo sĩ rằng; 3- Thứ ba giới quan liêu rằng; 4- Thứ tư giới nho sĩ rằng; 5- Thứ năm giới thiên văn địa lý rằng; 6- Thứ sáu giới lương y rằng; 7- Thứ bảy giới tướng quân rằng; 8- Giới hoa nương rằng; 9- Thứ chín giới thương cổ rằng; 10- Thử mười giới đãng tử...”.7
Trần Văn Giáp không đồng tình Thập giới cô hồn quốc ngữ văn do chính vua Lê Thánh Tông viết. Nhà vua chỉ đề thơ lên bản thảo bài tựa sách Thiên Nam dư hạ tập (trong đó có áng văn Thập giới cô hồn quốc ngữ văn) đã soạn sẵn. Nguyên văn bài thơ tựa ấy bằng chữ Hán mà sách Đại Việt sử ký toàn thư đã phiên âm:
Hỏa thử thiên đoan bố;
Băng tâm ngũ sắc ty,
Cánh cầu vô địch thủ
Tài tác cổn long y.8
Trần Văn Giáp đã dịch:
Ngàn mảnh vải bông con chuột lửa,
Năm màu tơ nõn cái tằm băng
Lại tìm thợ khéo tay vô địch
May bộ áo rồng chi đẹp bằng.
Quan điểm của tác giả bộ sách Việt Nam Phật giáo sử luận phản biện về nhận thức của Trần Văn Giáp rất rõ ràng:
“Không chắc quan điểm của Trần Văn Giáp là đúng. Trong Thiên Nam dư hạ tập ta thấy có chép thơ văn của hội Tao Đàn, trong đó có Quỳnh Uyển Cửu Ca, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là một tác phẩm Nôm quan trọng, sao lại không thể đưa vào Thiên Nam dư hạ tập, nhất là khi tác phẩm này do Tao Đàn Nguyên Soái sáng tác?”9
Mở đầu áng văn Nôm cổ Thập giới cô hồn quốc ngữ văn có những câu viết:
“... Cổ tới nhẫn kim; sinh thời có hóa. Ấy vậy, hồn là thần, phách là quỷ, no nên bụt, đói nên ma... Có quân tử, có tiểu nhân, chẳng cùng một đấng; trong phong quang, trong nghệ nghiệp, tới trót 10 loài. Ai ai cải lấy lòng phàm; khăn khắn cùng thời nghe giới.”
- Về giới thiền tăng, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn viết như lời răn:
“Chịu giáo Thích Già, thì lòng giữ giới...”. Có bài kệ than rằng, rõ nét lời than ở 2 câu kết:
Nói những thiên đường cùng địa ngục
Pháp sao chẳng độ được mình ta,,10
- Về giới nho sĩ nhận những lời răn: Hỡi ơi! Sống bởi chưng bàn bạc sự người; thác cho phải phiêu lưu đòi chốn. Vài bài kệ có lời than trách; tiêu biểu là 2 câu kết:
Bút mực chẳng quên bề chi lũ
Lộc cao sao khéo lỡ người ta.11
Như vậy chữ giới (誡r) trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn khác nghĩa hẳn với chữ “loại” trong Văn tế thập loại chúng sinh, về thể tài văn học thì Thập giới cô hồn quốc ngữ văn được viết theo lối tản văn nghiêng hẳn về chính luận. Thơ kệ chỉ thâu tóm lời răn để minh chứng, minh họa mà khai thị cho người được nghe, kể cả cô hồn được nghe như nghe kinh vậy.
![]() |
Ảnh: internet |
3. VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Loại (類) có nghĩa là loài giống như tứ tự thành ngữ “phân môn biệt loại”. Mười loài khác nghĩa với mười giới. Chúng (眾) có nghĩa là đông, nhiều. 眾生 là “các loài có sống, có chết, có cảm giác”. Chúng sinh ở trong tác phẩm Văn tế thập loại chúng sinh có nghĩa là “người”, “mọi người”. Chữ (十): thập là pháp số, vay mượn để chỉ số nhiều. Bổ sung cho việc chỉ “người”, trong dân gian có từ “kẻ”. “Kẻ” và “người” đồng nghĩa, đồng thuyền, đồng hội.
Về thể tài văn học của áng thơ nôm bất hủ đã trở thành kinh với 4 tên gọi: 1- Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh; 2- Chiều Hồn Văn; 3- Thỉnh Âm Hồn Văn; 4- Ca Tế Chúng Sinh.
Qua tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du (1766 - 1820) đã viết hai câu 2967 - 2968 như để giải thích về ý nghĩa của việc Chiêu hồn:
Chiêu hồn thiết vị lễ thường
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Đừng xem thường, danh từ “lễ thường” có nghĩa là quan trọng thứ yếu sau các lễ tế Giao, lễ tế Xã Tắc... Rút ruột từ cổ thư Lê Quý Đôn tìm ra chữ gọi của “lễ thường” có tên gọi là “tục tiết”.
Thỉnh âm hồn văn được sáng tác theo thể ngâm khúc gồm hơn 45 khổ, gọi là hơn bởi lẽ bài thỉnh cô hồn này được kết thúc bằng hai câu song thất “Phật hữu tình”:
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không…
Sau cùng, một nét đặc sắc khác của Văn tế thập loại chúng sinh được gọi là sám hoặc sám văn trong cúng tế, chiêu hồn, gọi hồn từng loại chúng sinh.
Trong suốt toàn áng văn gồm 182 câu thơ song thất lục bát được dựng theo thể ngâm một cách truyền cảm giao hưởng giữa hai cõi âm - dương, thế mà chỉ có lời gợi đến cô hồn, Nguyễn Du chỉ nhắc 10 loại liên quan chỉ có một lần nhắc chung tại câu 11: “Thương thay thập loại chúng sinh”.
Pháp số 10 hàm chỉ số nhiều, những trên 10 trở lên. Chúng sinh ám chỉ mọi người - Nguyễn Du đã dùng các danh từ “người” hoặc “kẻ” đến 19 lần qua những đến 15 lần “triệu hồn, được trích chọn từ câu 21 cho đến câu 136. Chọn đếm ra thì có tới 30 câu/182 câu”.
Không thể kể hết, tiêu biểu nhắc đến một số câu thơ minh họa:
- Câu 21, 22:
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chỉ những lăm cất gánh non sông.
- Câu 45, 46:
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son sống thác ở tay.
- Câu 93, 94:
Cũng có kẻ vào sông ra biển.
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
- Câu 121, 122:
Cũng có kẻ mắc đoàn tù rạc
Gởi mình vào chiếu rách một manh.
- Câu 129, 130:
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người xẩy cỗi xa cây.
- Câu 131, 132:
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành
- Câu 135, 136:
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khôn thương.
Nói 9 phương trời, 10 phương Phật thì đích thị là chuẩn mực. Viết thập loại thì có thể hiểu theo cách ước lệ. Phải hiểu là trên 10 như 12, 14... cũng đúng theo tư duy tổng quan của người Việt về số lớn. Nói 100 họ (bách tính) nhưng thực tế kê ra lại hơn 100 dòng tộc. Thói tục trong bán buôn mua 10 lại chầu thêm 2, 3 hoặc 4 là bằng chứng.
Cái khôn khéo của tác giả Nguyễn Du là đã dùng 10 loài chúng sanh lan tỏa qua phần triệu hồn (gọi hồn). Với “Cô hồn các đẳng”, dân gian thường nói thì họ chết đủ thứ nghiệp theo lỗi “sinh nghề tử nghiệp”. Đó là chưa kể chết non, chết già. Trên 10 loài chúng sinh như sĩ, nông, công, thương, binh, còn phải kể các loại chúng sinh khác như ngư, tiều, canh, mục hoặc cầm, kỳ, thi, họa chẳng hạn.
Đó là nét khác biệt và tiến bộ của Nguyễn Du so với các tác giả thuộc triều thần đời vua Lê Thánh Tông đã biên soạn Văn tế thập giới cô hồn quốc ngữ văn.
Trong toàn bài, tuyệt nhiên không tìm thấy câu nào nhắc đến giới tăng lữ như Thập giới cô hồn quốc ngữ văn do triều thần đời Lê Thánh Tông biên soạn mà chính nhà vua đề lời tựa của bộ sách Thiên Nam dư hạ tập ra đời vào thời Hồng Đức thứ 14, tức năm Quý Mão, 1483. Đời sau và đời nay đã phản biện tranh cãi: Ai là tác giả? Người bảo của Thân Nhân Trung, kẻ nói của vua Lê Thánh Tông. Và hiện nay chưa tìm ra lời giải mã đủ sức thuyết phục. Thiết nghĩ đó là khuyết nghi của lịch sử văn học để lại cho người đời sau. Chưa biết ai sẽ vén bức màn những bí ẩn này để làm sáng rõ vừa Quốc sử lẫn Phật sử nước nhà.
Riêng, Văn tế thập loại chúng sinh thì có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Nguyễn Du đã từng nhen nhóm nguồn cơn: “Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh độ/ Phóng hào quang cứu khổ độ u”.
Năm 1973, giáo sư Thạch Trung Giả cho ra mắt bạn đọc bộ sách Văn học phân tích toàn thư đã viết:
“... Kinh Chiêu Hồn tả thế giới của người chết, nhưng nó chỉ là phần phản ánh thế giới của người sống, đó là hình ảnh thời Lê Mạt, mà cũng vì thế nên mặc dầu thê thảm ghê rợn nhưng Kinh Chiêu Hồn vẫn không quái đản như những tác phẩm Edgar Po, nó còn NHÂN LOẠI TÍNH (người viết tôn hoa lên) vì nó tả hình ảnh nhân loại qua những bóng ma, nó cảm lòng ta chứ nó không muốn cho thần kinh thác loạn”12.
Tự thân Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh tự nhiên đã đẩy đưa Tố Như Nguyễn Du lên văn đàn thế giới và trở thành Đại thi hào dân tộc kể từ năm 1965.
Vinh danh lớn không những dành cho người Việt Nam mà còn cho hàng nho sĩ không thấy trở ngại gì khi mình đồng thời cũng là Phật tử nữa. Đó là nội dung lời bình về Nguyễn Du của tác giả sách Việt Nam văn hóa sử luận13.
Thiết nghĩ, đó là “cái dũng” của người cầm bút tung lên hay nói cách khác là khí tiết của nhà nho Nguyễn Du, Đại thi hào của thế giới.
L.Q.T
(TCSH343/09-2017)
-------------------
1. Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn, Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải, Nxb. Miền Nam, Sài Gòn, 1973, tr.187; 195.
2. Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn, Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải, Nxb: Miền Nam, Sài Gòn, 1973, tr. 187; 195. Tiếng Phạn: Ullambana = Vu Lan bồn hội.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Cao Huy Bin và Đào Duy Anh dịch, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2004, tr. 129.
4. Văn minh Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005, tr.361.
5. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000, tr.493.
6. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập I, Trần Văn Giáp, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1984, tr.218.
7. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập I, Trần Văn Giáp, Sđd, tr.219.
8. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.386.
9. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Sđd, tr.492
10. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Sđd, tr.494
11. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Sđd, tr.495.
12. Văn học phân tích toàn thư, Thạch Trung Giả, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn, 1973, tr.33.
13. Xem Việt Nam văn hóa sử luận, Nguyên Long , Sđd, tr.675-676.
NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.
CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.
NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.
PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)
TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.
NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.
NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.
TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.
THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.
HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.
TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.
INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.
TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.
HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.
VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.