Tình mẹ bao la không gì đo đếm được, những hình ảnh về mẹ luôn hiện hữu đầy ắp trong tâm khảm của mỗi người, hễ có dịp là như ngọn lửa trào lên những rung cảm rưng rức, nghẹn ngào. Đặc biệt, hình ảnh người mẹ mong chờ con cháu về sum họp trong mỗi dịp Tết nơi quê nhà luôn là niềm cảm xúc mãnh liệt trong lòng mỗi người. Đây cũng là nguồn cảm hứng để thi ca gọi tên. Bài thơ Tết của mẹ tôi của nhà thơ Nguyễn Bính hệt như một điệu đàn, một cung bậc vừa thiêng liêng, vừa ngọt ngào trong những thời khắc chuyển giao của đất trời mùa xuân.
Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên thật là Nguyễn Trọng Tạo. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca hiện đại. Sinh ra tại Vụ Bản, tỉnh Nam Định - một vùng quê Bắc Bộ vốn nổi tiếng với truyền thống văn chương, khoa bảng, với nhiều nền nếp sinh hoạt văn hóa đã đi vào thơ ca của ông làm nên cái chất riêng đúng với danh xưng “nhà thơ của tình quê”. Những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc hồn quê đã làm nên chân dung của một thi sĩ sống mãi với thời gian. Tết của mẹ tôi là một trong những thi phẩm như thế. Có lẽ, cuộc đời của Nguyễn Bính có nhiều thăng trầm, mất mát nên những vần thơ của ông về mẹ luôn mang đến cảm giác nhớ nhung vời vợi. Mẹ của Nguyễn Bính, bà Bùi Thị Miện, bị rắn độc cắn rồi mất (1918) khi Nguyễn Bính mới được 3 tháng tuổi, để lại ông trong cảnh côi cút, mồ côi mẹ đúng như câu thơ ông viết: Còn tôi sống sót là may/ Mẹ hiền mất sớm trời đày làm thơ.
Khi hương xuân chạm vào cánh cửa thời gian thì Tết cũng về dưới hiên nhà. Trong tâm thức của mỗi người, Tết là để hoài niệm, sống lại với hồi ức. Tết là dịp để tổng kết cuộc sống năm cũ, hy vọng tới điều tốt đẹp trong năm mới. Tết cũng là dịp để sum họp và đoàn tụ. Tết là quê hương, là một bức tranh sống động tươi mới như trong “Chợ Tết” của Đoàn Văn Cừ: “Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi/ Sương hồng lam, ôm ấp nóc nhà gianh/ Trên con đường viền trắng mép đồi xanh/ Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết”, hay những phong tục đầu năm của người Việt: “Mỗi năm hoa đào nở/ Lại thấy ông đồ già/ Bày mực tàu giấy đỏ/ Bên phố đông người qua/ Bao nhiêu người thuê viết/ Tấm tắc ngợi khen tài/ Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay” (Ông đồ - Vũ Đình Liên).
Hương sắc ấy cũng được thi nhân Nguyễn Bính tái hiện lại qua các phong tục tập quán truyền thống của dân tộc, trong từng nhịp điệu của thi ca. Tuy nhiên, trong thơ Nguyễn Bính, Tết còn được đặt dưới nhiều góc nhìn, là nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, là Tết của những người tha hương, là những nỗi khắc khoải hay những nỗi bơ vơ, lạc lõng khiến ai đang ở trong hoàn cảnh đó cũng bỗng trào dưng nước mắt. Trong số 272 bài thơ viết trước cách mạng của thi sĩ Nguyễn Bính, có rất nhiều bài thơ viết về Tết với các nhan đề như: Tết, Tết của mẹ tôi, Tết biên thùy… không chỉ gợi lên ý niệm về không gian, thời gian mà còn là tình cảm thiết tha của tác giả hướng về cội nguồn, về những người thân yêu.
“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/ Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”. Không khí ngày Tết được bắt đầu bằng những hình ảnh giản dị của người dân quê nhưng cũng đầy sang trọng và gợi lên bao sắc thái thân thương. Mỗi khoảnh khắc đẹp đẽ đó như một bức tranh in đậm vào tiềm thức tuổi thơ. Bao trùm lên không gian ấy là hình ảnh người mẹ tảo tần sắm sửa lo toan chuẩn bị cho gia đình đón một cái Tết đầm ấm, vui tươi.
“Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều,
Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều
Sân gạch, tường hoa người quét lại
Vẽ cung trừ quỷ trồng cây nêu”
Cả một năm bận rộn công việc vất vả, Tết là dịp nhiều gia đình “tổng dọn vệ sinh”, phong quang sạch sẽ nhà cửa. Mẹ bận rộn xoay xở, lo toan “đủ trăm chiều”, cảnh tượng vất vả của mẹ những ngày giáp Tết chắc hẳn ai trong số chúng ta cũng đã từng chứng kiến. Vào dịp Tết đến, những phong tục truyền thống như quét vôi, dọn nhà, vẽ cung trừ quỷ đầu ngõ, dựng nêu trước sân để mong đón một năm tốt lành. Cùng với đó là chuẩn bị đồ ăn, thức uống vừa để đảm bảo lương thực ba ngày Tết cho cả gia đình, vừa tiếp đãi khách, và cũng để mong ước một năm đủ đầy, tựa như “năm mới gạo đầy lu, muối đầy hũ”, vạn sự suôn sẻ.
“Nuôi hai con lợn tự ngày xưa
Mẹ tôi đã tính “Tết thì vừa”
Trữ gạo nếp thơm, mo gói bó
Dọn nhà, dọn cửa, rửa bàn thờ”
Không chỉ ngày xưa, bây giờ ở nông thôn vẫn có một số nhà “nuôi lợn từ bé” chờ ngày Tết. Mẹ trong thơ của Nguyễn Bính cũng tính toán, đo ngày tính tháng nuôi hai con lợn, trữ gạo nếp thơm, thêm bó mo cau là vừa cho cái Tết ấm cúng sum vầy. Những vật phẩm được chuẩn bị này về cơ bản vẫn là “cây nhà lá vườn”, của nhà tự trồng được. Dường như những bận bịu cuối năm khác hẳn với những bận bịu lo toan ngày thường. Vào thời điểm này, ai cũng muốn sắm sửa cho gia đình một cái Tết đủ đầy. Mẹ đúng với tên gọi “người xây tổ ấm”. Bàn tay lam lũ, bóng dáng tảo tần, mẹ dọn nhà, dọn cửa, rửa bàn thờ... Không dưng mà người ta thường hay bảo, tuy nói là ba ngày Tết, nhưng không khí nhất, chộn rộn nhất và tất bật nhất lại là những ngày giáp Tết. Bằng phương pháp liệt kê, hình ảnh người mẹ hiện lên dưới ngòi bút của thi sĩ đầy chân thực và gần gũi. Dáng vẻ tảo tần, chịu thương chịu khó của mẹ trong câu chữ, ngôn từ mà nhà thơ Nguyễn Bính mô tả được khắc họa đậm nét thông qua hàng loạt công việc được kể liên tiếp tạo nên mạch chảy xuyên suốt toàn bộ bài thơ.
Và để rộn ràng, tất bật hơn nữa, tác giả còn nhấn mạnh: “Nay là hăm tám Tết rồi đây/ (Tháng thiếu cho nên hụt một ngày)”. Công việc một mình mẹ gánh vác đã đủ bận rộn, thời gian lẫn không gian đều có vẻ rất dồn dập, bởi dường như cái sự “hụt một ngày” mà Tết lại càng gần hơn thì phải? Sự gấp gáp tràn từ câu thơ của Nguyễn Bính len lỏi vào cảm xúc của người đọc, khiến chúng ta như cảm nhận được những thấp thoáng đâu đó sự quen thuộc đến ngỡ ngàng, thân thương. Hòa vào không khí vui tươi của đất trời, khi mọi công việc nhà cửa đã “hòm hòm”, mẹ lại lo đi chợ sắm sửa mâm lễ dâng tổ tiên, mua vật dụng cần thiết cho cả gia đình. Cả một năm có thể nhiều khó khăn, thiếu thốn phải chắt bóp, tiết kiệm nhưng Tết đến phải sung túc, trong ấm ngoài êm, đây có lẽ cũng là một cách “trả công” cho những ngày tháng vất vả lao động của năm cũ, và “mở bát” để đón nhận nhiều niềm vui trong năm mới.
Tuổi thơ tôi cũng đã từng rất mong chờ những ngày đi chợ Tết cùng mẹ, lẽo đẽo đôi chân nhỏ tôi khuân về khi thì nải chuối, lúc thì vài đốt giang để ba làm bánh, xâu mộc nhĩ để mẹ làm ram. Việc đi chợ Tết luôn tưng bừng như thế, ở đấy có niềm vui, có nỗi lo, có trách nhiệm, có đầy đủ các cung bậc cảm xúc. Mẹ trong thơ của Nguyễn Bính cũng tất bật sắm sửa lo toan trong phiên chợ ngày cuối năm như thế. Ngoài đồ lễ, mẹ còn mua thêm pháo chuột, tranh gà “Sắm sửa đồ lễ về việc Tết/ Mẹ tôi đi chợ buổi hôm nay/ Không như mọi bận, người mua quà/ Chỉ mua pháo chuột và tranh gà/ Cho các em tôi đứa mỗi chiếc/ Dán lên khắp cột đốt inh nhà” món đồ mà đứa trẻ nào cũng thích. Trong muôn ngàn thú chơi dân dã, nhà thơ lựa chọn hai hình ảnh tiêu biểu nhất để diễn tả không khí Tết. Âm thanh của pháo chuột nổ inh nhà gợi ra sự vui vẻ, sôi động; còn những bức tranh gà thì gợi lên cảnh sinh sôi, no đủ. Khó khăn nhưng vui và đầm ấm chính là như thế.
Các công việc như “mổ lợn, gà”, “đồ xôi” để chuẩn bị cho cỗ bàn đã xong xuôi thì thời khắc quan trọng nhất cũng đã tới - Giao thừa. Đây là thời khắc thiêng liêng nhất, tiễn biệt những buồn vui năm cũ để hướng tới những hy vọng an lành trong năm mới. “Suốt đêm Giao thừa, mẹ tôi thức/ Lẩm nhẩm câu kinh Đức Chúa Bà”. Mẹ vui cùng niềm vui Tết đến, xuân về, vui trong niềm hạnh phúc gia đình đầm ấm, êm vui, các con mạnh khỏe, dẫu có bao nhiêu nhọc nhằn mẹ chẳng nề hà chi. Và mẹ không quên việc chính là dặn dò chu đáo các con:
“Mẹ tôi gọi cả các em tôi
Đến bên mà dặn: “sáng ngày mai
Các con phải dậy sao cho sớm
Đầu năm, năm mới phải lanh trai.
Mặc quần mặc áo, lên trên nhà
Thắp hương, thắp nến lễ ông bà
Chớ có cãi nhau, chớ có quấy
Đánh đổ, đánh vỡ như người ta…”
Người xưa thường quan niệm “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, đặc biệt là đầu năm mới, với hy vọng một mùa xuân an lành, trọn vẹn. Mẹ dặn dò các con kỹ lưỡng, sáng mồng một, phải “thức dậy sao cho sớm” với trạng thái vui vẻ, nhanh nhẹn, “cho lanh trai”. Các hành động, phát ngôn đầu năm sẽ có ảnh hưởng tới những chuyện xảy ra trong năm, nên “chớ có cãi nhau, chớ có quấy”. Cũng như việc kiêng “đánh đổ, đánh vỡ” các đồ chén, gương, ly… nếu rơi vỡ vào đầu năm sẽ không đem lại điềm cát lành. Quần áo chỉnh tề, thắp hương cho gia tiên, ông bà rồi mới tính tới việc đi chúc Tết. Theo quan niệm của người Việt, vị khách đến thăm nhà đầu tiên trong năm rất quan trọng, họ ảnh hưởng tới việc gia chủ năm đó có an lành, hạnh phúc hay không. Mẹ sợ các con ham chơi, sợ các con quên những điều kiêng kỵ, nên “Sáng mồng một, sớm tinh sương/ Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường”. Những lời dặn dò đó gợi bao kỷ niệm thiêng liêng một thời, là ký ức tươi đẹp lúc còn thơ ấu.
Sáng mồng một không khí xuân rộn ràng khắp mọi nẻo đường. Lúc này những đứa trẻ háo hức hơn bao giờ hết, quần áo đẹp đẽ đi chúc Tết ông bà nội ngoại, cô dì chú bác, những câu chúc đầu năm như: “Xuân sang cháu chúc mừng bà/ Suốt năm mạnh mẽ nước da đỏ hồng/ Mắt bà thêm sáng thêm trong/ Bà đi ngay ngắn đừng còng cái lưng” (Mừng tuổi bà - Trần Trung Phương), những cái xoa đầu đến từ người lớn tuổi, hay những phong bì lì xì đỏ thắm cầu may. Người già và trẻ nhỏ là hai đối tượng được mừng tuổi trong dịp năm mới, cầu cho người già sống lâu sống khỏe, chúc cho trẻ nhỏ mạnh khỏe bình an. “Một ông khách trông trời cười hớn hở/ Bước vào nhà mừng rỡ mở phong bao/ Làm cả nhà tấp nập chạy xôn xao/ Chúc năm mới ồn ào không ngớt tiếng” (Sáng mồng một - Trần Trung Phương). Nguyễn Bính cũng đã tái hiện lại tục lệ mừng tuổi này một cách vô cùng đáng yêu: “Mở hàng mỗi đứa năm xu rưỡi/ Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương”. Mẹ mừng tuổi mở hàng cho mỗi đứa là “năm xu rưỡi”, vừa đủ chẵn và lẻ để “hên” cả một năm.
Chân dung mẹ trong thơ Nguyễn Bính là điển hình mẫu mực cho người phụ nữ tần tảo, hiền lành, chăm lo đủ đầy mọi việc trong nhà ngoài ngõ, yêu thương chăm sóc chồng con hết mực, và đặc biệt rất hiếu thảo tôn kính ông bà tổ tiên. Đó là những nét đẹp về thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Người mẹ hội tụ đầy đủ công - dung - ngôn - hạnh, đẹp từ vẻ bề ngoài cho tới nội tâm. “Mẹ tôi thắt lại chiếc khăn sồi/ Rón rén lên bàn thờ ông tôi/ Đôi mắt người trông thành kính quá/ Ngước xem hương cháy đến đâu rồi”. Hình ảnh “thắt lại chiếc khăn sồi” cùng động tác “rón rén” đó là sự thành tâm, kính cẩn của người mẹ trước ban thờ gia tiên. Đối với ai mẹ cũng dành sự yêu thương, chăm sóc nên không khí những ngày Tết luôn ngập tràn vui vẻ: “Mẹ tôi uống hết một cốc rượu/ Mặt người đỏ tía vì hơi men/ Người rủ cô tôi đánh tam cúc/ Cười ầm tốt đỏ đè tốt đen”. Toàn bài thơ 13 khổ, thì khổ thơ này có lẽ tác giả dành riêng cho niềm vui của mẹ sau những lo toan tất bật. Qua trang sách người đọc phần nào mường tượng ra được hình ảnh ấm áp, rộn ràng lúc đó. Và đây rõ ràng là một gia đình có nền nếp gia phong. Người chồng, người cha thoáng qua không gian bằng hình ảnh “Thầy tôi lấy một tờ gia tiên/ Bút lông dầm mực, viết lên trên”, đây có thể là một thầy đồ như trong thơ Vũ Đình Liên hoặc một người có chút chức sắc trong làng, hình ảnh này chỉ để làm nền tô điểm cho không gian Nho giáo trong giới hạn gia đình. Mọi công việc trong nhà đều do một tay người vợ, người mẹ quán xuyến. Nhưng tất cả đều tròn trịa, vuông vắn, chu đáo đâu vào đấy, bởi họ là người “giữ lửa gia đình”, “người xây tổ ấm”.
Nếu như nhà thơ Nguyễn Hữu Thịnh khép lại bài thơ “Tết của mẹ” bằng một hình ảnh rất đẹp: “Thấy Tết quê hương mắt mẹ cười”, thì nhà thơ Nguyễn Bính lại khiến cho người đọc ngậm ngùi hơn ở khổ thơ kết:
“Xong ba ngày Tết mẹ tôi lại
Đầu tắt, mặt tối, nuôi chồng con
Rồi một đôi khi người giã gạo
Chuyện trò kể lại tuổi chân son”
Mẹ cũng có “ước mơ riêng mình” nhưng mẹ gói ghém lại bằng những câu chuyện kể “tuổi chân son”, trở về với hiện thực cuộc sống, xong xuôi ba ngày Tết, mẹ tất bật “Đầu tắt, mặt tối, nuôi chồng con”, đúng với cái cảnh “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Lời thơ dung dị, nhẹ nhàng nhưng để lại những dư ảnh thấp thoáng một nỗi buồn xa xăm, vời vợi. Phải yêu mẹ, nhớ thương mẹ nhiều lắm mới viết nên được những vần thơ tròn trặn dư âm, dư vị đến như thế!
Mẹ gìn giữ, nâng niu hương vị truyền thống của Tết bằng những hình ảnh quen thuộc, dân dã để con cháu được sum vầy, nếp nhà mãi mãi vẹn nguyên. Mẹ tảo tần lo toan mọi việc miễn sao gia đình hạnh phúc, ấm êm. Người mẹ trong Tết của mẹ tôi là điển hình mẫu mực cho người phụ nữ Việt Nam, những người vợ, người mẹ rất đỗi bình thường nhưng vô cùng vĩ đại. Dựng lại chân dung của mẹ bằng lối kể chuyện tự nhiên, nhẹ nhàng, không hình tượng hóa, vẫn sử dụng lối viết tả thực, nhà thơ Nguyễn Bính đã để lòng mình lặng lẽ tràn trên trang giấy, và cả những dư âm vang vọng trong lòng người đọc về mẹ và mùa xuân.
Đ.T.N
(TCSH432/02-2024)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.