‘Tết của mẹ tôi’ - Bóng dáng tảo tần của “người xây tổ ấm”

19:56 26/01/2025
Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên). 

Tình mẹ bao la không gì đo đếm được, những hình ảnh về mẹ luôn hiện hữu đầy ắp trong tâm khảm của mỗi người, hễ có dịp là như ngọn lửa trào lên những rung cảm rưng rức, nghẹn ngào. Đặc biệt, hình ảnh người mẹ mong chờ con cháu về sum họp trong mỗi dịp Tết nơi quê nhà luôn là niềm cảm xúc mãnh liệt trong lòng mỗi người. Đây cũng là nguồn cảm hứng để thi ca gọi tên. Bài thơ Tết của mẹ tôi của nhà thơ Nguyễn Bính hệt như một điệu đàn, một cung bậc vừa thiêng liêng, vừa ngọt ngào trong những thời khắc chuyển giao của đất trời mùa xuân.

Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên thật là Nguyễn Trọng Tạo. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca hiện đại. Sinh ra tại Vụ Bản, tỉnh Nam Định - một vùng quê Bắc Bộ vốn nổi tiếng với truyền thống văn chương, khoa bảng, với nhiều nền nếp sinh hoạt văn hóa đã đi vào thơ ca của ông làm nên cái chất riêng đúng với danh xưng “nhà thơ của tình quê”. Những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc hồn quê đã làm nên chân dung của một thi sĩ sống mãi với thời gian. Tết của mẹ tôi là một trong những thi phẩm như thế. Có lẽ, cuộc đời của Nguyễn Bính có nhiều thăng trầm, mất mát nên những vần thơ của ông về mẹ luôn mang đến cảm giác nhớ nhung vời vợi. Mẹ của Nguyễn Bính, bà Bùi Thị Miện, bị rắn độc cắn rồi mất (1918) khi Nguyễn Bính mới được 3 tháng tuổi, để lại ông trong cảnh côi cút, mồ côi mẹ đúng như câu thơ ông viết: Còn tôi sống sót là may/ Mẹ hiền mất sớm trời đày làm thơ.

Khi hương xuân chạm vào cánh cửa thời gian thì Tết cũng về dưới hiên nhà. Trong tâm thức của mỗi người, Tết là để hoài niệm, sống lại với hồi ức. Tết là dịp để tổng kết cuộc sống năm cũ, hy vọng tới điều tốt đẹp trong năm mới. Tết cũng là dịp để sum họp và đoàn tụ. Tết là quê hương, là một bức tranh sống động tươi mới như trong “Chợ Tết” của Đoàn Văn Cừ: “Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi/ Sương hồng lam, ôm ấp nóc nhà gianh/ Trên con đường viền trắng mép đồi xanh/ Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết”, hay những phong tục đầu năm của người Việt: “Mỗi năm hoa đào nở/ Lại thấy ông đồ già/ Bày mực tàu giấy đỏ/ Bên phố đông người qua/ Bao nhiêu người thuê viết/ Tấm tắc ngợi khen tài/ Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay” (Ông đồ - Vũ Đình Liên).

Hương sắc ấy cũng được thi nhân Nguyễn Bính tái hiện lại qua các phong tục tập quán truyền thống của dân tộc, trong từng nhịp điệu của thi ca. Tuy nhiên, trong thơ Nguyễn Bính, Tết còn được đặt dưới nhiều góc nhìn, là nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, là Tết của những người tha hương, là những nỗi khắc khoải hay những nỗi bơ vơ, lạc lõng khiến ai đang ở trong hoàn cảnh đó cũng bỗng trào dưng nước mắt. Trong số 272 bài thơ viết trước cách mạng của thi sĩ Nguyễn Bính, có rất nhiều bài thơ viết về Tết với các nhan đề như: Tết, Tết của mẹ tôi, Tết biên thùy… không chỉ gợi lên ý niệm về không gian, thời gian mà còn là tình cảm thiết tha của tác giả hướng về cội nguồn, về những người thân yêu.

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/ Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”. Không khí ngày Tết được bắt đầu bằng những hình ảnh giản dị của người dân quê nhưng cũng đầy sang trọng và gợi lên bao sắc thái thân thương. Mỗi khoảnh khắc đẹp đẽ đó như một bức tranh in đậm vào tiềm thức tuổi thơ. Bao trùm lên không gian ấy là hình ảnh người mẹ tảo tần sắm sửa lo toan chuẩn bị cho gia đình đón một cái Tết đầm ấm, vui tươi.

Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều,
Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều
Sân gạch, tường hoa người quét lại
Vẽ cung trừ quỷ trồng cây nêu

Cả một năm bận rộn công việc vất vả, Tết là dịp nhiều gia đình “tổng dọn vệ sinh”, phong quang sạch sẽ nhà cửa. Mẹ bận rộn xoay xở, lo toan “đủ trăm chiều”, cảnh tượng vất vả của mẹ những ngày giáp Tết chắc hẳn ai trong số chúng ta cũng đã từng chứng kiến. Vào dịp Tết đến, những phong tục truyền thống như quét vôi, dọn nhà, vẽ cung trừ quỷ đầu ngõ, dựng nêu trước sân để mong đón một năm tốt lành. Cùng với đó là chuẩn bị đồ ăn, thức uống vừa để đảm bảo lương thực ba ngày Tết cho cả gia đình, vừa tiếp đãi khách, và cũng để mong ước một năm đủ đầy, tựa như “năm mới gạo đầy lu, muối đầy hũ”, vạn sự suôn sẻ.

Nuôi hai con lợn tự ngày xưa
Mẹ tôi đã tính “Tết thì vừa”
Trữ gạo nếp thơm, mo gói bó
Dọn nhà, dọn cửa, rửa bàn thờ

Không chỉ ngày xưa, bây giờ ở nông thôn vẫn có một số nhà “nuôi lợn từ bé” chờ ngày Tết. Mẹ trong thơ của Nguyễn Bính cũng tính toán, đo ngày tính tháng nuôi hai con lợn, trữ gạo nếp thơm, thêm bó mo cau là vừa cho cái Tết ấm cúng sum vầy. Những vật phẩm được chuẩn bị này về cơ bản vẫn là “cây nhà lá vườn”, của nhà tự trồng được. Dường như những bận bịu cuối năm khác hẳn với những bận bịu lo toan ngày thường. Vào thời điểm này, ai cũng muốn sắm sửa cho gia đình một cái Tết đủ đầy. Mẹ đúng với tên gọi “người xây tổ ấm”. Bàn tay lam lũ, bóng dáng tảo tần, mẹ dọn nhà, dọn cửa, rửa bàn thờ... Không dưng mà người ta thường hay bảo, tuy nói là ba ngày Tết, nhưng không khí nhất, chộn rộn nhất và tất bật nhất lại là những ngày giáp Tết. Bằng phương pháp liệt kê, hình ảnh người mẹ hiện lên dưới ngòi bút của thi sĩ đầy chân thực và gần gũi. Dáng vẻ tảo tần, chịu thương chịu khó của mẹ trong câu chữ, ngôn từ mà nhà thơ Nguyễn Bính mô tả được khắc họa đậm nét thông qua hàng loạt công việc được kể liên tiếp tạo nên mạch chảy xuyên suốt toàn bộ bài thơ.

Và để rộn ràng, tất bật hơn nữa, tác giả còn nhấn mạnh: “Nay là hăm tám Tết rồi đây/ (Tháng thiếu cho nên hụt một ngày)”. Công việc một mình mẹ gánh vác đã đủ bận rộn, thời gian lẫn không gian đều có vẻ rất dồn dập, bởi dường như cái sự “hụt một ngày” mà Tết lại càng gần hơn thì phải? Sự gấp gáp tràn từ câu thơ của Nguyễn Bính len lỏi vào cảm xúc của người đọc, khiến chúng ta như cảm nhận được những thấp thoáng đâu đó sự quen thuộc đến ngỡ ngàng, thân thương. Hòa vào không khí vui tươi của đất trời, khi mọi công việc nhà cửa đã “hòm hòm”, mẹ lại lo đi chợ sắm sửa mâm lễ dâng tổ tiên, mua vật dụng cần thiết cho cả gia đình. Cả một năm có thể nhiều khó khăn, thiếu thốn phải chắt bóp, tiết kiệm nhưng Tết đến phải sung túc, trong ấm ngoài êm, đây có lẽ cũng là một cách “trả công” cho những ngày tháng vất vả lao động của năm cũ, và “mở bát” để đón nhận nhiều niềm vui trong năm mới.

Tuổi thơ tôi cũng đã từng rất mong chờ những ngày đi chợ Tết cùng mẹ, lẽo đẽo đôi chân nhỏ tôi khuân về khi thì nải chuối, lúc thì vài đốt giang để ba làm bánh, xâu mộc nhĩ để mẹ làm ram. Việc đi chợ Tết luôn tưng bừng như thế, ở đấy có niềm vui, có nỗi lo, có trách nhiệm, có đầy đủ các cung bậc cảm xúc. Mẹ trong thơ của Nguyễn Bính cũng tất bật sắm sửa lo toan trong phiên chợ ngày cuối năm như thế. Ngoài đồ lễ, mẹ còn mua thêm pháo chuột, tranh gà “Sắm sửa đồ lễ về việc Tết/ Mẹ tôi đi chợ buổi hôm nay/ Không như mọi bận, người mua quà/ Chỉ mua pháo chuột và tranh gà/ Cho các em tôi đứa mỗi chiếc/ Dán lên khắp cột đốt inh nhà” món đồ mà đứa trẻ nào cũng thích. Trong muôn ngàn thú chơi dân dã, nhà thơ lựa chọn hai hình ảnh tiêu biểu nhất để diễn tả không khí Tết. Âm thanh của pháo chuột nổ inh nhà gợi ra sự vui vẻ, sôi động; còn những bức tranh gà thì gợi lên cảnh sinh sôi, no đủ. Khó khăn nhưng vui và đầm ấm chính là như thế.

Các công việc như “mổ lợn, gà”, “đồ xôi” để chuẩn bị cho cỗ bàn đã xong xuôi thì thời khắc quan trọng nhất cũng đã tới - Giao thừa. Đây là thời khắc thiêng liêng nhất, tiễn biệt những buồn vui năm cũ để hướng tới những hy vọng an lành trong năm mới. “Suốt đêm Giao thừa, mẹ tôi thức/ Lẩm nhẩm câu kinh Đức Chúa Bà”. Mẹ vui cùng niềm vui Tết đến, xuân về, vui trong niềm hạnh phúc gia đình đầm ấm, êm vui, các con mạnh khỏe, dẫu có bao nhiêu nhọc nhằn mẹ chẳng nề hà chi. Và mẹ không quên việc chính là dặn dò chu đáo các con:

Mẹ tôi gọi cả các em tôi
Đến bên mà dặn: “sáng ngày mai
Các con phải dậy sao cho sớm
Đầu năm, năm mới phải lanh trai.
Mặc quần mặc áo, lên trên nhà
Thắp hương, thắp nến lễ ông bà
Chớ có cãi nhau, chớ có quấy
Đánh đổ, đánh vỡ như người ta…

Người xưa thường quan niệm “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, đặc biệt là đầu năm mới, với hy vọng một mùa xuân an lành, trọn vẹn. Mẹ dặn dò các con kỹ lưỡng, sáng mồng một, phải “thức dậy sao cho sớm” với trạng thái vui vẻ, nhanh nhẹn, “cho lanh trai”. Các hành động, phát ngôn đầu năm sẽ có ảnh hưởng tới những chuyện xảy ra trong năm, nên “chớ có cãi nhau, chớ có quấy”. Cũng như việc kiêng “đánh đổ, đánh vỡ” các đồ chén, gương, ly… nếu rơi vỡ vào đầu năm sẽ không đem lại điềm cát lành. Quần áo chỉnh tề, thắp hương cho gia tiên, ông bà rồi mới tính tới việc đi chúc Tết. Theo quan niệm của người Việt, vị khách đến thăm nhà đầu tiên trong năm rất quan trọng, họ ảnh hưởng tới việc gia chủ năm đó có an lành, hạnh phúc hay không. Mẹ sợ các con ham chơi, sợ các con quên những điều kiêng kỵ, nên “Sáng mồng một, sớm tinh sương/ Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường”. Những lời dặn dò đó gợi bao kỷ niệm thiêng liêng một thời, là ký ức tươi đẹp lúc còn thơ ấu.

Sáng mồng một không khí xuân rộn ràng khắp mọi nẻo đường. Lúc này những đứa trẻ háo hức hơn bao giờ hết, quần áo đẹp đẽ đi chúc Tết ông bà nội ngoại, cô dì chú bác, những câu chúc đầu năm như: “Xuân sang cháu chúc mừng bà/ Suốt năm mạnh mẽ nước da đỏ hồng/ Mắt bà thêm sáng thêm trong/ Bà đi ngay ngắn đừng còng cái lưng” (Mừng tuổi bà - Trần Trung Phương), những cái xoa đầu đến từ người lớn tuổi, hay những phong bì lì xì đỏ thắm cầu may. Người già và trẻ nhỏ là hai đối tượng được mừng tuổi trong dịp năm mới, cầu cho người già sống lâu sống khỏe, chúc cho trẻ nhỏ mạnh khỏe bình an. “Một ông khách trông trời cười hớn hở/ Bước vào nhà mừng rỡ mở phong bao/ Làm cả nhà tấp nập chạy xôn xao/ Chúc năm mới ồn ào không ngớt tiếng” (Sáng mồng một - Trần Trung Phương). Nguyễn Bính cũng đã tái hiện lại tục lệ mừng tuổi này một cách vô cùng đáng yêu: “Mở hàng mỗi đứa năm xu rưỡi/ Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương”. Mẹ mừng tuổi mở hàng cho mỗi đứa là “năm xu rưỡi”, vừa đủ chẵn và lẻ để “hên” cả một năm.

Chân dung mẹ trong thơ Nguyễn Bính là điển hình mẫu mực cho người phụ nữ tần tảo, hiền lành, chăm lo đủ đầy mọi việc trong nhà ngoài ngõ, yêu thương chăm sóc chồng con hết mực, và đặc biệt rất hiếu thảo tôn kính ông bà tổ tiên. Đó là những nét đẹp về thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Người mẹ hội tụ đầy đủ công - dung - ngôn - hạnh, đẹp từ vẻ bề ngoài cho tới nội tâm. “Mẹ tôi thắt lại chiếc khăn sồi/ Rón rén lên bàn thờ ông tôi/ Đôi mắt người trông thành kính quá/ Ngước xem hương cháy đến đâu rồi”. Hình ảnh “thắt lại chiếc khăn sồi” cùng động tác “rón rén” đó là sự thành tâm, kính cẩn của người mẹ trước ban thờ gia tiên. Đối với ai mẹ cũng dành sự yêu thương, chăm sóc nên không khí những ngày Tết luôn ngập tràn vui vẻ: “Mẹ tôi uống hết một cốc rượu/ Mặt người đỏ tía vì hơi men/ Người rủ cô tôi đánh tam cúc/ Cười ầm tốt đỏ đè tốt đen”. Toàn bài thơ 13 khổ, thì khổ thơ này có lẽ tác giả dành riêng cho niềm vui của mẹ sau những lo toan tất bật. Qua trang sách người đọc phần nào mường tượng ra được hình ảnh ấm áp, rộn ràng lúc đó. Và đây rõ ràng là một gia đình có nền nếp gia phong. Người chồng, người cha thoáng qua không gian bằng hình ảnh “Thầy tôi lấy một tờ gia tiên/ Bút lông dầm mực, viết lên trên”, đây có thể là một thầy đồ như trong thơ Vũ Đình Liên hoặc một người có chút chức sắc trong làng, hình ảnh này chỉ để làm nền tô điểm cho không gian Nho giáo trong giới hạn gia đình. Mọi công việc trong nhà đều do một tay người vợ, người mẹ quán xuyến. Nhưng tất cả đều tròn trịa, vuông vắn, chu đáo đâu vào đấy, bởi họ là người “giữ lửa gia đình”, “người xây tổ ấm”.

Nếu như nhà thơ Nguyễn Hữu Thịnh khép lại bài thơ “Tết của mẹ” bằng một hình ảnh rất đẹp: “Thấy Tết quê hương mắt mẹ cười”, thì nhà thơ Nguyễn Bính lại khiến cho người đọc ngậm ngùi hơn ở khổ thơ kết:

Xong ba ngày Tết mẹ tôi lại
Đầu tắt, mặt tối, nuôi chồng con
Rồi một đôi khi người giã gạo
Chuyện trò kể lại tuổi chân son

Mẹ cũng có “ước mơ riêng mình” nhưng mẹ gói ghém lại bằng những câu chuyện kể “tuổi chân son”, trở về với hiện thực cuộc sống, xong xuôi ba ngày Tết, mẹ tất bật “Đầu tắt, mặt tối, nuôi chồng con”, đúng với cái cảnh “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Lời thơ dung dị, nhẹ nhàng nhưng để lại những dư ảnh thấp thoáng một nỗi buồn xa xăm, vời vợi. Phải yêu mẹ, nhớ thương mẹ nhiều lắm mới viết nên được những vần thơ tròn trặn dư âm, dư vị đến như thế!

Mẹ gìn giữ, nâng niu hương vị truyền thống của Tết bằng những hình ảnh quen thuộc, dân dã để con cháu được sum vầy, nếp nhà mãi mãi vẹn nguyên. Mẹ tảo tần lo toan mọi việc miễn sao gia đình hạnh phúc, ấm êm. Người mẹ trong Tết của mẹ tôi là điển hình mẫu mực cho người phụ nữ Việt Nam, những người vợ, người mẹ rất đỗi bình thường nhưng vô cùng vĩ đại. Dựng lại chân dung của mẹ bằng lối kể chuyện tự nhiên, nhẹ nhàng, không hình tượng hóa, vẫn sử dụng lối viết tả thực, nhà thơ Nguyễn Bính đã để lòng mình lặng lẽ tràn trên trang giấy, và cả những dư âm vang vọng trong lòng người đọc về mẹ và mùa xuân.

Đ.T.N
(TCSH432/02-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.