Truyện ngắn và tiểu thuyết - khái niệm và thể loại

15:33 13/10/2023

PHẠM PHÚ PHONG

Hai thể loại giữ vai trò nòng cốt và xung kích trong văn xuôi hiện đại của nhiều nước trên thế giới là tiểu thuyết và truyện ngắn.

Ảnh: internet

Trong lịch sử hình thành và phát triển của văn xuôi hước ta, hai thể loại này được khẳng định cùng với sự ra đời của văn chương quốc ngữ và có ý nghĩa lịch sử riêng, vấn đề lịch sử hình thành khái niệm và đặc trưng thể loại là một vấn đề đã cũ, nhưng cần xác định lại như một nhu cầu "ôn cố tri tân", trở lại khởi điểm ban đầu và các tiêu chí bản chất, trước khi xác định thế nào là một tác phẩm hay hay tác phẩm dở. Tất nhiên, hay hoặc dở lại là vấn đề khác, song cũng xuất phát trên các yêu cầu của thể loại, mà đôi khi khó bàn đến một cách thấu đáo.

Cả hai danh từ truyện ngắntiu thuyết đều là những danh từ mới, dùng để chỉ những thể loại văn chương tưởng tượng (khác với văn chương lý trí như sử, triết, chính luận...), xuất hiện trong nền văn học hiện đại nước ta trên cái nền chung của cuộc cọ xát giữa văn minh phương Đông và văn minh phương Tây, từ truyền thống văn học Trung Quốc và văn học Pháp. Tất nhiên, trên thế giới, chưa hẳn đây là hai nước đầu tiên đề xuất hai khái niệm trên. Ở Trung Hoa, từ đời Tần trở về trước, tiểu thuyết là một trong ba thể loại văn chương tưởng tượng (littérature d’imagination)- bên cạnh thơ và ngụ ngôn - nhưng tiểu thuyết là những câu chuyện ngắn, có khi dịch ra tiếng Việt chỉ trên dưới mười dòng. Mãi đến thời Lục triều (năm 385) mới có những tiểu thuyết dài và sau khi tiếp xúc với phương Tây (sau cách mạng Tân Hợi, 1911) mới có truyện ngắn, được gọi là đon thiên tiểu thuyết, mặc dù trước đó có những truyện kinh dị của Bồ Tùng Linh là truyện ngắn, là đoản thiên nhưng được tác giả gọi là tiểu thuyết.

Ở Pháp, tiểu thuyết, xuất hiện bên cạnh những truyện cổ tích được gọi là conte, cho đến thế kỷ 19, người ta viết câu chuyện tưởng tượng ra ngắn như cổ tích, chỉ khác là những chuyện này có tác giả hẳn hoi, và cũng gọi là conte. Từ đó danh từ conte (có nghĩa là sự kể chuyện) không chỉ dùng cho loại truyện cổ tích mà còn dùng để chỉ truyện ngắn(1) mặc dù nội dung hai loại hoàn toàn khác nhau, một bên là những truyện đời xưa truyền tụng trong dân gian, một bên là những truyện mới tưởng tượng ra, mang tính ngộ nghĩnh, ly kỳ hoặc ẩn chứa nỗi đau của thân phận con người, ở nước ta sự xuất hiện của văn tự mới, kéo theo sự ra đời của báo chí, làm thay đổi cả tư duy sáng tạo và tạo ra những thể loại văn học mới. Nhiều người vẫn cho rằng cuốn tiểu thuyết quốc ngữ xuất hiện đầu tiên ở nước ta là cuốn T Tâm của Hoàng Ngọc Phách(2) và khẳng định “Tiểu thuyết Hoàng Ngọc Phách đã mở ra một phương hướng mới cho tiểu thuyết truyền thống. Vị trí của cuốn tiểu thuyết này trong văn học Việt Nam có thể so sánh với vị trí của những cuốn Quận chúa Clèvese của Mme de la Fayette hay Manon Lescaut của Prévost trong tiểu thuyết Pháp”(3). Song thực tế hoàn toàn không phải vậy. Cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên được tác giả gọi là "kim thời tiểu thuyết" đó là Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản xuất bản năm 1887. Đây là cuốn sách mở đầu cho kiểu tư duy văn học mới, khác hẳn với tiểu thuyết chương hồi truyền thống, khởi từ những câu chuyện cổ, chuyện lịch sử, anh hùng như Lĩnh Nam chích quái, Vũ trung tùy bút, Hoàng Lê nhất thng chí... đó là kiểu tiểu thuyết viết về chuyện mới, có hư cấu, tưởng tượng, cấu trúc theo quá trình phát triển của tính cách nhân vật như tiểu thuyết Pháp hiện đại(4). Trong lời tựa của Thy Lazaro Phin tác giả viết rằng: "Đã biết rằng, xưa nay dân ta chẳng thiếu chi thơ, văn, phú, truyện nói về những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao chí cả rồi đó, mà những đấng ấy thuộc về thời xưa chứ đời nay chẳng còn nữa. Bởi đó, tôi mới dám bày một chuyện đời nay là sự thường có trước mắt ta luôn, như vậy thì sẽ có nhiều người lấy làm vui lòng mà đọc, kẻ thì cho quen mặt chữ, người thì cho đặng giải phiền một giây(...) Tôi có một dụng ý lấy tiếng thường mọi người hằng nói mà làm một truyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt cũng in ra ít nhiều truyện hay, trước là làm cho con trẻ ham vui mà tập đọc, sau là làm cho dân các xứ biết rằng người An Nam sánh trí, sánh tài thì cũng chẳng thua ai"(5). Những người trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng, nhưng đi sau Nguyễn Trọng Quản một bước là Hoàng Ngọc Phách với T Tâm (viết 1922, in 1925), Nguyễn Trọng Thuật với Quả dưa đ (1925) Nguyễn Chánh Sắt với Chăng Cà Mum (1925), Hồ Biểu Chánh với Cay đắng mùi đời (1926) Nguyễn Tường Tam với Nho Phong (1927)...

Về truyện ngắn, cho đến khi Nam Phong tạp chí ra đời (1917) một trong 6 đề mục của văn xuôi tưởng tượng, mục đầu tiên là đoản thiên tiểu thuyết, mục cuối cùng là truyện ngắn. Và với 210 số báo tồn tại trong 17 năm (1917-1934) Nam Phong đã đăng tải 34 truyện ngắn của các tác giả như Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Lê Đức Nhượng, Nguyễn Văn Cơ, Mân Châu...(6)

Nhưng cũng có thể nói rằng, không phải chỉ đến Nam Phong văn chương quốc ngữ mới có truyện ngắn, mà thực chất những truyện trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm t Hi (1881) của Trương Vĩnh Ký, Truyện giải bun (1886) của Huỳnh Tịnh Của... đã bắt đầu cho một lối kết cấu của một thể loại mới.

Sự vận động của thể loại, về mặt hình thức, ít nhiều tạo nên sự khó khăn cho việc xác định khái niệm. Từ khi ra đời của tiểu thuyết hiện đại đến nay, khái niệm tiểu thuyết hầu như thống nhất. Chỉ có nhóm Tự Lực văn đoàn từ năm 1933 và một số tác giả, một số nhà xuất bản ở miền Nam trước năm 1975 (như Lá Bối chẳng hạn) dùng từ truyện dài thay cho tiểu thuyết. Sở dĩ như thế là vì họ muốn khẳng định cái danh từ truyện và phân biệt với thể loại truyn ngắn. Song, đối với khái niệm truyện ngắn, thì lại trải qua một chặng đường "thay tên đổi họ" khá phức tạp.

Bởi vì, khi chúng ta tiếp thu khái niệm conte bằng cách mượn một danh từ của Trung Hoa là đoản thiên tiu thuyết hay là truyện ngn, để chỉ một loại truyện được sáng tác mới (chứ không phải chuyện đời xưa, chuyện kể, chuyện cổ tích) có cốt truyện, có đầu có đuôi, có trước có sau thì ở phương Tây, cũng chính vào thời điểm những năm đầu thế kỷ XX này đã xuất hiện những truyện sáng tác mới không có đầu có đuôi, có trước có sau, không có nhân vật với tên tuổi rõ ràng, những truyện không có truyện, không gian và thời gian xáo trộn, đảo ngược, xoay chiều, lộn xộn, đọc xong không thể kể lại được, và người ta gọi đó là nouvelle - một tính từ có nghĩa là “mới” biến thành danh từ đứng riêng một mình rất mơ hồ như vậy. Nhưng nouvelle là loại truyện rất sâu sắc, tế nhị, phù hợp với tâm trạng phong phú của đời sống hiện đại. Nó thiên hình vạn trạng, không có giới hạn, không có tiêu chuẩn, không thể định nghĩa được một cách rõ ràng, chuẩn xác. Về mặt hình thức, nouvelle có dài hơn conte một chút, nên người Trung Hoa cũng bắt đầu sáng tác loại này và gọi đó là trung thiên tiểu thuyết. Còn ở ta, nhóm Tự Lực văn đoàn gọi nouvelle là truyện ngắn (riêng cá nhân Xuân Diệu, một thành viên của Tự Lực văn đoàn gọi là tiểu thuyết ngắn), nhóm Tinh Hoa của Đoàn Phú Tứ gọi là truyện dài, nhóm Sống của Đông Hồ gọi là truyện vừa, nhóm Dân Quí gọi là truyện mới (dịch lại từ tân truyện đã được nhiều báo gọi là trước năm 1945)... cho đến nay, ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới, bất kể truyện viết theo lối cũ có đầu có đuôi, có cốt truyện hay viết theo lối mới rối mù, đảo lộn theo lôgic tâm trạng, cũng đều gọi là truyện ngắn (short story). Trong khi đó tiểu thuyết ở Pháp vẫn gọi là tiểu thuyết (roman) thì ở các nước Anh, Mỹ lại gọi là nouvelle. Bởi vì, cùng với truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại cũng có khi không có truyện, không có xung đột, cũng đảo ngược, xáo trộn thời gian và không gian nghệ thuật, tạo nên sự đa chiều, đa thanh. Xu thế này, đối với tiểu thuyết còn mạnh mẽ hơn, với tư cách là "thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình"(7).

Song, viết theo cách nào, theo lôgic câu chuyện hay tâm trạng, có truyện hay không có truyện, không phải là theo sự cố ý của nhà văn mà tùy theo thể tài, theo vấn đề, theo "tạng" của mỗi nhà văn. Bên cạnh sự hấp dẫn của truyện ngắn Phạm Thị Hoài luôn để mạch văn tuôn chảy theo dòng ý thức, là truyện ngắn kể có lớp lang, có đầu có đuôi của Nguyễn Huy Thiệp vẫn không kém phần hấp dẫn người đọc.

Đã có nhiều công trình, nhiều tác giả nghiên cứu sâu về đặc trưng thể loại của tiểu thuyết và truyện ngắn. Điều cần nói thêm là, dẫu có sự gần gũi nhau trong quá trình phát triển của văn thể, nhưng giữa truyện ngắn và tiểu thuyết còn có những khoảng cách rất xa. Người ta nói rằng "truyện ngắn chính là cách cưa lấy một khúc đời sống"(8) "mỗi truyện ngắn cần có một ý, một ý thôi"(9) hoặc truyện ngắn "Không có cái gì được thừa"(10), ngôn ngữ truyện ngắn là ngôn ngữ súc tích, ngắn gọn... Song tất cả những đặc tính ấy cũng đều là yêu cầu của tiểu thuyết. Chỉ có điều, dẫu sao tiểu thuyết cũng có bóng mờ của một câu chuyện nào đó, rất mong manh, như một niềm cảm thức, nhưng vẫn cứ có. Trong khi đó truyện ngắn (tức là nouvelle) không cần phải có chuyện gì hết. Tiểu thuyết bao giờ cũng chứa đựng một dung lượng hiện thực lớn hơn truyện ngắn, tiểu thuyết có thể chỉ quan tâm đến một cảnh đời, một số phận, hay hàng trăm con người, hàng trăm số phận đề cập đến hàng loạt các vấn đề đời sống, trong khi truyện ngắn chỉ có thể chọn lọc vài ba số phận tiêu biểu, một vài vấn đề cốt tử của đời sống. Cũng vì lẽ đó, thi pháp tiểu thuyết cho phép sử dụng nhiều góc nhìn nhiều quan niệm, nhiều chiều nhiều tầng lớp thời gian, không gian, ngữ nghĩa, trong khi truyện ngắn chỉ dừng lại ở vài khía cạnh, tâm trạng, đòi hỏi nói ngay, nói gọn, để chừa một khoảng trống để từ đó người đọc suy ngẫm thêm...

Quan sát sự phát triển văn học thế giới hiện đại, chúng ta thấy sự vận động đặc trưng thể loại ngày càng gần gũi nhau. Thể loại này có thể sử dụng các đặc trưng nghệ thuật của thể loại kia. Song loại nào cũng tồn tại trên sức mạnh đặc trưng thể loại của mình, không thể thay thế cho nhau, hoặc chuyển hoá lẫn nhau một cách hoàn toàn. Tóm lại, mỗi thể loại đều có điểm mạnh và điểm yếu riêng của mình, nhưng nó sẽ không loại trừ lẫn nhau, mà cũng tồn tại khi cuộc sống cần đến nó. Mặc dù, gần đây, tùy thiện cảm và khách thể nghiên cứu của mỗi người, người thì khẳng định sức sống của tiểu thuyết, người thì khẳng định sự vĩnh cửu của truyện ngắn, cả hai xu thế đều đúng, nếu chúng ta không cực đoan bằng cách đề cao loại này mà phủ nhận loại kia.

2.1993
P.P.P
(TCSH55/05&6-1993)

-------------------
(1) Bình Nguyên Lộc, Truyện ngắn, n truyện, tiu thuyết, tập san Văn, Sg, số 149, 1970, tr. 7.
(2) Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu (1944), Vũ Ngọc Phan - Nhà văn hiện đại (1942), Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học s gin ước tân biên (1946), Thanh Lãng - Bng lược đồ văn học Việt Nam (1968), Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974), Nhóm tác giả - Tự điển văn học (2 tập, 1983 - 1984).
(3) Phan Cự Đệ, sđd, tr. 26.
(4) Phạm Phú Phong, Sự tác động của văn học Pháp trong quá trình hình thành và phát triển văn chương quc ngữ; BCKH. Hội nghị Văn học thế giới đương đại trường ĐHTH Huế, 1.1993.
(5) Nguyễn Q. Thắng, Tiến trình văn nghệ min Nam. NXB An Giang, 1990, tr. 260.
(6) Lại Văn Hùng, Truyện ngắn Nam Phong, NXB KHXH - VVH 1989, tr. 20.
(7) M.Bakhtin, Lý lun và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, xb 1992, tr. 21.
(8), (9), (10), Tô Hoài, Nguyễn Công, Hoan, Tchékhov, dẫn theo Vương Trí Nhàn, Sổ tay truyện ngắn, NXB Tác Phẩm mới, 1978.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.