Trường nữ học

08:57 20/08/2008
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGMột hôm nhân rỗi việc, tôi ngồi thả câu nơi một bến đá quen thuộc ven sông Hương. Chỗ này cá nhiều ăn không kịp giật. Bỗng cái phao của tôi trôi đi vùn vụt như thể có người kéo. Tôi vung mạnh tay, một chú cá chép mắc câu nhảy đành đạch trên mặt cỏ. Bất ngờ nó thở hổn hển và nói với tôi bằng tiếng người: rằng nó là con vua Thuỷ Tề, đi tuần thú dọc sông Hương, đã bị tôi bắt được. Nó năn nỉ xin tôi thả ra, sau đó nó sẽ đền ơn bằng cách thực hiện cho tôi ba điều ước.

Tôi quát to:
- Mày không nói gì thì tao cũng sẽ thả mày ra. Nhà tao không ai ăn cá chép.
- Nhưng tôi có bổn phận thực hiện cho Ngài ba điều ước.
Tôi ngắt lời:
- Vậy thì nghe đây: Trường trung học Trưng Trắc hãy trở lại là một trường nữ học.
Đến lượt nó quát to:
- Rõ đầu óc viễn vông! Hãy ước một điều gì cho chính bản thân người, hoặc cho vợ con ngươi được nhờ, ước như thế ta không thực hiện được.
- Vậy thôi, chẳng thèm.... ta chỉ có điều ước muốn ấy gọi là "cháy bỏng".
Con cá chép gầm gừ rồi lặn xuống nước biệt tăm.
Có lẽ con cá thần cũng không ngờ được rằng tôi đã nói thật lòng một sự thật đã nén lại trong lòng tôi từ mấy chục năm qua. Hồi ấy cũng chẳng trách ai, vì Bộ Giáo dục thì theo khoa học hiện đại, còn địa phương thì phải theo Bộ. Mà theo khoa học hiện đại thì ở bậc trung học, một nhà trường hỗn hợp nam nữ sẽ giúp cho sức phát triển nhân cách, hơn là một trường nữ học thuần tuý; theo phương thức sau này người ta chỉ có ý thức về bản thân đầy đủ hơn, khi soi mặt mình trong tấm gương tâm lý của người khác giới tính. Và trên thế giới hiện nay cũng không có một Bộ Giáo dục nào chịu để riêng dưới tay mình một nhà trường thuần nam hoặc thuần nữ như thế... Còn lại là xứ Huế và tôi luôn luôn thuộc về cái thành phố nhỏ bé ấy.
Từ nhiều năm qua, nghề nhiệp đưa tôi tiếp cận tâm lý của người dân Huế, cũng như tâm lý của du khách. Và cả hai đều tỏ ra tiếc quay quắt khi trường nữ trung học duy nhất của thành phố bị giải thể. Không trừ một ai kể cả ông Võ Nguyên Giáp (thuở còn là phó thủ tướng) và bà Nguyễn Thị Bình (thuở còn là Bộ trưởng Bộ Giáo dục). Quả nhiên không ai còn muốn nhắc đến Huế nữa, khi Huế không còn có sông Hương, cầu Trường Tiền hoặc trường Đồng Khánh. Tôi nguyên là thầy dạy khoa quốc văn ở trường Đồng Khánh vào những năm 60-61. Bà hiệu trưởng thời ấy rất thích tính "vô nguyên tắc" của tôi nhưng ông giám đốc Nha học chánh lại bố trí tôi dạy ở trường Quốc học, lấy cớ rằng tôi không thuộc thành phần "C.V" (nghĩa là có vợ). Tôi cãi lại rằng trước sau gì tôi cũng lấy vợ, ông ta bảo rằng đợi lúc ấy hẵng hay.
Nhiều năm sau, tôi còn quay lại trường Đồng Khánh, dạy triết học ở lớp cuối, với tư cách dạy giờ theo hợp đồng. Tôi theo chị Tịnh Nhơn (bà hiệu trưởng) ra vườn "ăn" từng đoá hoa hồng, khi vào giữa buổi sáng, chúng tôi thường thấy đói bụng. Chị Tịnh Nhơn hiểu biết hết mọi chuyện đông tây kim cổ, và mỗi khi có một ý tưởng hài hước về cuộc đời, chị thường cười sặc sụa, cười cho đến lúc khuôn mặt xinh đẹp của chị ràn rụa cả nước mắt, khiến tôi lấy làm lạ, không biết chị đang cười hay đang khóc. Chị Tinh Nhơn thường kể cho tôi nghe chuyện dài "Đồng Khánh răng đen" và "Đồng Khánh răng trắng", những mẩu chuyện thú vị mà tôi chưa hề biết trong cái lịch sử dài dằng dặc của nhà trường, nhờ đó mà ngôi trường nữ ấy trà trộn vào máu thịt tôi, khiến cho tôi trở thành một người bạn tri âm của nó.
Điều là lạ, tôi vốn là thầy dạy chính thức ở trường Quốc học ở bên cạnh, nhưng mọi buồn vui hằng ngày đều gửi lại dưới mái trường Đồng Khánh, nơi đó chị Tịnh Nhơn như một vị thần canh gĩư hộ tôi bao nhiêu châu ngọc trường Đồng Khánh như một giấc mơ nhẹ của thành phố, nơi đó thời thiếu nữ thơ ngây một đi là đi mãi tận bên trời, giống như mây của mùa thu cũ, nơi đó bị hắt ra khỏi sân trường, người ta liền trở thành một người khác ngay lập tức, tất bật giữa dòng đời. Qua những thông tin từ chị Tịnh Nhơn, tôi được biết một vệt màu rất quý có từ thời "Đồng Khánh răng đen". Đó là màu tím hoang đường của một thời, còn lưu truyền cho tôi, qua câu nói dân giã bằng giọng tây bồi "lắt léo mẹ dồng lô, a xanh cutô pơrồ mơ nát" (học trò nhà nước đi du ngoạn tại Nam Giao). Nguyên có một bộ phận của nữ sinh Đồng Khánh ở nội trú, vào chiều thứ năm hoặc thứ bảy trong tuần, họ phải xếp hàng hai, theo cô thầy giám thị đi dạo ở Đàn Nam Giao, đồng phục màu tím. Cứ hằng tuần, cái dòng người màu tím lại hiện ra, gieo một ấn tượng khó quên trong ký ức người dân Huế.
Thuở tôi lớn lên và đủ tuổi để ghi nhận những sắc màu ở chung quanh thì trường Đồng Khánh đã thôi không dùng đồng phục màu tím. Thế mà lòng tôi cứ bâng khuâng nhớ lại câu thơ này của Lý Bạch: "Tử y lang đối tử vi hoa" (Chàng áo tím đứng nhìn bông hoa tím). Phía trước trường Đồng Khánh sát mép bờ sông Hương, có một bến đò ngang nổi tiếng gọi là bến đò Thừa Phủ, như là bến đò chuyên dùng dành cho nữ sinh Đồng Khánh qua lại giữa hai bờ. Có một lần tôi xuống đò, đứng khép nép như đi một chuyến đò chợ. Chung quanh tôi tất cả đều màu trắng, và tôi chỉ nhận ra vài nét nhan sắc qua sự phản chiếu của bóng nước. Tôi là người lái đò trên dòng sông trong tiểu thuyết "câu chuyện của dòng sông" của Herman Hesse, đi khắp bốn phương trời rồi trở về làm một ông lái đò ung dung trên sông nước, học cái minh triết của dòng sông. Chung quanh tôi màu trắng ửng lên trong nắng sớm và tất cả nổi bật trên mặt nước xanh. Tất cả bỗng sáng trưng trong trẻo lạ lùng đến độ tôi băn khoăn: cớ sao tôi không đi học hội hoạ. Tôi tin rằng có một cái gì thuộc về vĩnh cửu hiển hiện trên dòng sông Hương. Suốt hàng chục năm nay, tôi như là người hướng dẫn viên du lịch cho những nhà văn về thăm Huế. Dạo đầu có những nhà văn nước ngoài, nhìn ngơ ngẩn quang cảnh này của Huê: những nữ sinh Đồng Khánh giờ ra chơi, những người này nô đùa, những người khác quàng tay nhau đi dạo dưới hàng cây. Họ bảo rằng đi khắp thế giới không tìm đâu ra một quang cảnh đẹp như vậy. Nhiều nhà văn lại quở rằng: Thành phố Huế không lớn lắm, nếu không có gì đặc biệt thì tại sao lại bố trí hai trường cấp 3 đứng cạnh nhau như thế.
Tôi có một chị bạn, vốn là người Huế, đã định cư ở Sài Gòn từ nhỏ. Hôm về thăm Huế, chị nói với cô cháu:
- Nghe cháu học trường Đồng Khánh phải không? Ừ nhãn hiệu "nữ sinh Đồng Khánh" có giá lắm. Cháu hát cho cô nghe một bài được không?
- Dạ không, cháu là học trò Quốc học, em Ngọc cháu mới là học trò Đồng Khánh.
Rồi cô ngoảnh xuống nhà dưới gọi to:- Ngọc ơi, Ngọc ạ. Cô gọi đến lần thứ ba, thì một cậu trai đen nhẻm, mặc quần cọc, mồ hôi nhể nhải, chừng đi đá bóng ở ngoài đường mới về, đến đứng trước mặt cô. "Học trò Đồng Khánh là thế đấy!". Tôi xa thành phố, đi đánh bạn với lau lách suốt mười năm. Ngày trở về không còn nhìn thấy bến đò Thừa Phủ, và sau đó cả trường Đồng Khánh cũng biến mất, tôi lặng người thấy Huế cứ mãi khác đi hết cái này đến cái khác, kể cả những cái không cần phải thay đổi. Lòng tôi đau như xé. Nhân dịp này, dịp kỷ niệm 85 năm thành lập trường Đồng Khánh và cũng vì sự nghiệp phát triển của một thành phố du lịch, tôi chợt nghe xôn xao câu hát quen thuộc của một nhạc sĩ đi xa về thăm quê
-"Giữ chút gì rất Huế đi em"
Huế 10/03/2002
H.P.N.T
(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…