Đề cao vai trò cũng như trách nhiệm của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội, lần đầu tiên tại Huế, cũng là lần đầu tiên ở nước ta, có một tổ chức giáo dục đã nêu rõ quan điểm, lập trường, bảo vệ quyền của người phụ nữ: trường Nữ Công học hội.
Đạm Phương nữ sử và chồng, ông Nguyễn Khoa Tùng (Ảnh tư liệu)
Nữ Công học hội được thành lập vào ngày 15/6/1926, với sự khuyến khích của nhà yêu nước Phan Bội Châu, doĐạm Phương nữ sử làm Hội trưởng. Với tài lãnh đạo của Đạm Phương nữ sử, trường Nữ Công học hội được xem là tổ chức hội phụ nữ đầu tiên ở nước ta mà nhờ đó, “từ chốn buồng the, từ nơi cung cấm, từ những công việc quẩn quanh trong bếp núc, từ những xó tối của kiếp cơ hàn, nhiều phụ nữ đã bước ra khỏi ngưỡng cửa nhà mình, đã vươn tới hòa nhập cùng xã hội bằng những công việc mà hàng trăm năm trước đó chỉ nam giới mới được làm” trong giai đoạn đầu của thế kỷ XX. Khi nàng tôn nữ đòi quyền bình đẳng Sinh ra trong một gia đình hoàng tộc, thuộc dòng dõi vua chúa, Đạm Phương nữ sử (tên thật là Công Nữ Đồng Canh) là ái nữ của Hoằng Hóa Quận Vương Miên Triện, cháu nội của vua Minh Mạng. Tuy lúc bấy giờ đất nước bị đô hộ nhưng Đạm Phương nữ sử vẫn được hưởng nền giáo dục truyền thống và nghiêm túc của Hoàng tộc. Nhờ sự giáo dục truyền thống của chốn hậu cung, bà đã được học rất nhiều thứ tiếng thông thạo như chữ Pháp, chữ Hán, chữ Quốc ngữ, ngoài ra bà còn rất giỏi cầm kỳ thi họa, nữ công gia chánh… Với vốn am tường kiến thức về các giá trị văn hóa truyền thống, năm 20 tuổi, bà được mời vào cung lo việc cho hoàng hậu; dạy cho các công chúa, cung nữ. Bà dạy giỏi và được triều đình phong cho chức “nữ sử” nên bà thường ký tên là Đạm Phương nữ sử. Được học hành đến nơi đến chốn, bà nhận thức được vai trò quan trọng của người phụ nữ, cũng như thấy được cái lợi của việc học, cái thiệt của việc không được học của đại đa số phụ nữ lúc bấy giờ, khi những lễ giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ” vẫn bủa vây. Cùng với sự ảnh hưởng từ tư tưởng duy tân của người cha – hoàng tử Miên Triện, vị hoàng tử đầu tiên của triều Nguyễn được cử dẫn phái đoàn Việt Nam sang Pháp năm 1889 để tìm hiểu nền văn minh phương Tây, tất cả đã tạo nên tiền đề cho Đạm Phương trở thành một người toàn tài với những đóng góp đáng kể cho quyền bình đẳng của phụ nữ sau này. Hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực như báo chí, văn học và cả chính trị, xã hội, ở vai trò nào Đạm Phương nữ sử hầu như cũng đều hướng về việc làm sao để giải phóng cho người phụ nữ. Đó là tư tưởng xuyên suốt cuộc đời bà. Bà Đạm Phương là nữ tác giả đầu tiên có số lượng tác phẩm lớn nhất gồm nhiều thể loại như thơ, truyện, tiểu thuyết, sách giáo dục, khảo cứu và có đến hơn 200 bài báo... Hầu hết trong số đó đều bàn về vấn đề phụ nữ. Bởi vậy, bà được xem là nhà nữ quyền tiêu biểu nhất đầu thế kỷ XX, là nhà văn nữ đầu tiên viết tiểu thuyết, nhà giáo dục học tân tiến của thời kỳ cận đại, là người có công khai ngành gia đình học, phụ nữ học và giáo dục mầm non Việt Nam… Trong cuốn tiểu luận “Đạm Phương với vấn đề nữ học: Giáo dục phụ nữ và trẻ em trong gia đình” của tác giả Đoàn Ánh Dương, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8 – 2013 có nêu: Ngày 15/6/1926, khánh thành Nữ Công học hội tại kinh thành Huế, trong tư cách Hội trưởng, diễn văn của bà cũng hết sức nhấn mạnh đến vấn đề nữ học. Đến năm 1929, một lần nữa vấn đề này được bà trở lại, nhân trả lời trưng cầu của báo Phụ nữ tân vănxung quanh tôn chỉ của báo, ở phạm vi rộng lớn hơn: vấn đề phụ nữ”. Trước đó, với tư cách là một nhà báo, bà cũng đã dành rất nhiều tâm huyết khi viết về quyền lợi người phụ nữ trên các tờ báo lớn ba miền lúc bấy giờ nhưNam Phong tạp chí, Trung Bắc tân văn… với những lời lẽ vừa gần gũi, ôn hòa nhưng cũng hết sức mạnh mẽ, quyết liệt, đặc biệt qua chuyên mục Lời đàn bà mà bà phụ trách trên Trung Bắc tân văn. Có thể kể đến một số bài viết tiêu biểu như: Dạy con gái nên kiệm ước làm đầu (số ra ngày 27/11/1923), Cách trang điểm của người đàn bà thế nào là đẹp (30/10/1923), Cách phục sức của người đàn bà (11/02/1924), Người đàn bà phải biết cách ăn ở với chồng (28/06/1923), Trăm nết thảo làm đầu (14/06/1923), Dạy trẻ con khi giao thiệp với người ngoài (11/10/1925)... Có thể thấy rằng, xuyên suốt quá trình hoạt động văn học, báo chí cũng như xã hội của mình, Đạm Phương nữ sử vẫn luôn đấu tranh vì sự tiến bộ của nữ giới chung, trong đó sự nỗ lực, cống hiến của bà là một minh chứng điển hình cho sự đấu tranh đó. Nữ Công học hội - đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội Trong mục II – Phong trào yêu nước trước năm 1930 của cuốn Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế ghi rõ: “ Tháng 6/1926, cụ Phan Bội Châu đề xướng và tổ chức ra Nữ Công học hội, với mục đích đưa phụ nữ vào con đường hoạt động xã hội, nâng cao kiến thức và vai trò phụ nữ trong gia đình và xã hội… Hội do bà Đạm Phương làm Hội trưởng… Sự ra đời của Hội Nữ Công đã thu hút đông đảo chị em tham gia vào các hoạt động xã hội… Hội đã giác ngộ tinh thần yêu nước, hướng chị em phụ nữ vào những hoạt động tích cực, chống lại các hủ tục, những ràng buộc lễ giáo phong kiến”. Ngay từ khi mới được thành lập, Đạm Phương nữ sử đã tự dự thảo tôn chỉ, mục đích, nội quy, chương trình hoạt động của Hội. Mặc dù tên gọi của Hội gắn với nữ công nhưng mục đích của bà Đạm Phương không dừng lại ở đó, mà thông qua Nữ Công học hội thể hiện mục đích giáo dục phụ nữ rất toàn diện của bà. Diễn văn tại lễ khánh thành Nữ Công học hội, bà chỉ rõ: “Nữ công chẳng những giúp cho đàn bà về đường tự lập, mà lại về đường sinh kế, và thứ nữa là cái mầm mống của sự công nghệ thực nghiệp nước nhà sau này vậy...”. Lễ khánh thành Nữ Công học hội tại Huế (1926) (Ảnh tư liệu)
Hoạt động của Nữ Công học hội cũng rất đa dạng, cụ thể và thiết thực. Không chỉ dạy chữ, dạy nghề thông dụng, dạy đại cương về giáo dục phụ nữ, dạy cách nấu ăn…, Hội còn cung cấp kiến thức và kinh nghiệm tổ chức gia đình, nuôi dạy con cái, tạo điều kiện cho chị em làm quen với hoạt động tập thể, tiến tới tham gia công việc xã hội. Với phương pháp giáo dục toàn diện, cộng với sự mềm dẻo, linh hoạt trong các mối quan hệ của mình, Đạm Phương nữ sử đã buộc chính quyền thực dân phong kiến lúc bấy giờ phải thừa nhận Nữ Công học hội là tổ chức phụ nữ phi chính phủ, được hoạt động công khai. Xu hướng tiến bộ của Nữ công học hội Huế dưới sự lãnh đạo của Đạm Phương nữ sử được dư luận, báo chí đánh giá cao và nhiệt tình cổ vũ. Đặc biệt, khi bà Đạm Phương đứng ra thành lập Nữ công học hội ở Huế thì được sự hưởng ứng tức thời của chị em phụ nữ khắp ba miền, gồm 18 hội có cơ sở đặt trên 18 tỉnh, thành, thị xã. Riêng ở Đà Nẵng, Đà Thành nữ công học hội cũng được thành lập vào ngày 29/7/1928. Ảnh hưởng của Hội lan truyền khắp cả nước, đã dấy lên phong trào hoạt động xã hội tích cực của phụ nữ ở các vùng Vinh, Thanh Hoá, Hà Nội, Hải Phòng, Hội An, Nha Trang, Sài Gòn, Gia Định, Cần Thơ... Các bậc chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng và các trí thức trẻ Đào Duy Anh, Đoàn Nồng, Nguyễn Lân rất hoan nghênh và nhiệt tình tham gia nhiều hoạt động của Hội, đã góp phần vào thành công và nâng cao uy tín của Hội. Như vậy, với việc đưa một người phụ nữ lên nắm quyền trong thời đại lúc bấy giờ đã là một điều hiếm có; để người phụ nữ lãnh đạo, hướng dẫn, dạy dỗ chị em phụ nữ về mọi mặt, từ đó để thay đổi nhận thức, thay đổi lối sống, tư duy hiện đại lại càng đặc biệt. Nữ Công học hội, vì vậy mà được xem như một trường học, cũng là một địa chỉ tin cậy cho chị em phụ nữ lúc bấy giờ có thêm niềm tin, nghị lực vào bản thân để phấn đấu và cống hiến cho gia đình và xã hội, từ đó hoàn thiện nhân cách của mỗi người: dù cách tân nhưng vẫn không buông bỏ truyền thống. Theo nhận định của tác giả Bùi Trân Phượng, trong cuốn Tuyển tập Đạm Phương nữ sử (NXB Văn học, 1999, tr.211): “Trong chủ nghĩa nữ quyền chánh trị xã hội... người đã để lại số lượng sách báo đồ sộ và những hoạt động thực tiễn không kém ấn tượng là Đạm Phương nữ sử, nhà giáo dục có tính cách tân đáng kinh ngạc; tôi nhận diện ở bà một nhà hoạt động nữ quyền ôn nhu, trầm tĩnh nhưng tâm huyết và quyết đoán trong sứ mạng khai trí của mình. Là mẹ và là bà của hơn một thế hệ thanh niên trí thức nam và nữ, tất cả đều được bà cho học lấy một nghề để mưu sinh, sống tự lập hay đã dấn thân hoạt động cách mạng, suốt đời bà chuyên tâm đào tạo và tổ chức đào tạo nhiều nhà giáo dục nữ khác, chia sẻ với họ tri thức, năng lực giáo dục và niềm tin rằng “giáo dục không phải là một công trình trói buộc người ta. Giáo dục là một công trình bồi bổ để nảy nở tất cả những năng lực cao quý trong một người”. Nữ Công học hội – nơi cổ súy tinh thần yêu nước Không chỉ là một trường học, Nữ Công học hội được xác nhận là phong trào yêu nước trước những năm 1930 và vai trò bà Đạm Phương đã góp phần hình thành tổ chức tiền thân, sự ra đời của tổ chức Đảng Cộng sản Thừa Thiên mà các con bà Nguyễn Khoa Tú, Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều) đã tham gia từ đầu. Là một công nữ triều Nguyễn rồi trở thành tù chính trị năm 1929, mặc dù ra tù không có án nhưng tư tưởng, lòng yêu nước của bà Đạm Phương đã phát triển theo con đường cách mạng. Theo thuathienhue.gov.vn, ngay từ khi mới được thành lập, Hội này thường mời cụ Phan Bội Châu và một số nhà cách mạng khác đến nói chuyện tình hình thế giới, về vai trò của phụ nữ giúp chị em hiểu biết thêm nhiều mặt. Năm 1926, cụ Phan Chu Trinh mất, Hội tổ chức truy điệu, bà Đạm Phương đã đọc điếu văn, có đoạn: "Mấy mươi năm góc biển chân trời, vằng vặc tấm cô trung, trên vì nước, dưới vì dân, tinh thần vẫn lai láng sông núi Việt. Đã nhiều thuở khua chiêng gióng trống, thiết tha hồn cố quốc, trước hiệp lòng, sau hiệp sức, sự nghiệp đành phó thác cháu con Hồng". Trong bài viết “Công nữ Đồng Canh – nữ sử Đạm Phương: Một phụ nữ nổi tiếng ở Huế đầu thế kỷ XX” của tác giả Ngô Kha (nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế) có viết: “ Năm 1931, tại Sài Gòn, ông Nguyễn Khoa Tú, con trai bà Đạm Phương bị Pháp bắt tra khảo đến chết, tiếp đó, Hải Triều cũng bị bắt giải ra Huế làm án. Bà rất đau xót nhưng chí hướng của bà càng rõ thêm. Cũng trong năm 1931, bà đã vận động Nữ Công học hội quyên góp ủng hộ đồng bào trong vụ Pháp đàn áp Xô Viết Nghệ Tĩnh. Ủng hộ đồng bào bị đàn áp là ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh – chính quyền công nông đầu tiên ở nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Bà đã có công dẫn dắt nữ sinh Đồng Khánh trong phong trào bãi khóa, tham gia Nữ Công học hội. Một số người đã trở thành những cán bộ phụ nữ tiêu biểu như bà Trần Thị Như Mân, Đào Thị Xuân Yến (Nguyễn Đình Chi), Nguyễn Khoa Diệu Hồng, Nguyễn Thị Lý, Nguyễn Thị Lài…, trong đó có liệt sĩ Nguyễn Thị Lài, tỉnh ủy viên Đông Dương Cộng sản Đảng tỉnh Thừa Thiên năm 1929, hy sinh năm 1934”. Với tổ chức Hội Nữ Công và các hoạt động văn chương, báo chí của bà Đạm Phương, cụ Phan Bội Châu đã viết “Nữ quốc dân tu tri” (quốc dân nữ giới cần biết) có 25 bài giáo huấn. Nữ Công học hội, với sự hoạt động công khai, đã xuất bản được cuốn “Nữ quốc dân tu tri” lần thứ nhất năm 1926, lần thứ 2 vào năm 1929 và được lưu truyền trong nữ giới ở Huế và ở cả hai miền Nam Bắc, trở thành lời kêu gọi:
“Học Bà Trưng Trắc giận nước, thương chồng Tuy thông tin tư liệu về Nữ Công học hội không nhiều nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng có thể thấy được sức lan tỏa, sự lớn mạnh về nhận thức của chị em phụ nữ trường Nữ Công học hội, cũng như uy tín của bà Đạm Phương, mặc dù sau khi ra tù, bà đã xin thôi chức Hội trưởng vào tháng 9/1929. Trong bài phát biều đề dẫn tại hội thảo khoa học Kỷ niệm 130 năm ngày sinh Đạm Phương nữ sử (18/6/1881-18/6/2011), PGS.TS Đỗ Bang cho biết: “Nữ công học hội là một sản phẩm độc đáo vào thời cận đại Việt Nam, ra đời tại kinh đô Huế do một nữ Hoàng phái – cháu nội của vua Minh Mạng sáng lập theo tư tưởng canh tân đất nước là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử. Nữ công học hội ra đời trước tất cả các đảng phái chính trị tại Huế và là tổ chức phụ nữ đầu tiên của Việt Nam có tôn chỉ, điều lệ, trụ sở, ban lãnh đạo, tài khoản riêng; hội viên đóng hội phí, được tổ chức kết nạp và bãi miễn. Vị thế của Hội nhanh chóng ảnh hưởng đến các cấp, các ngành ở xứ sở Đông Dương, phạm vi hoạt động của Hội không những trên cả nước mà còn lan tỏa sang Lào”. Dù chỉ hoạt động trong một thời gian không lâu nhưng Nữ Công học hội tại Huế xứng đáng được xem là một mốc son trong việc giáo dục, tôn vinh thành công hình ảnh người phụ nữ những năm đầu thế kỷ XX, không chỉ đảm việc nhà, mà còn giỏi việc nước, mà tiêu biểu nhất là Đạm Phương nữ sử. |
Theo Khám phá Huế |
Một dự án nghiên cứu mới vừa công bố cho biết 136/720 di tích văn hóa trên thế giới “có thể sẽ biến mất sau 2.000 năm do mực nước biển dâng”, trong đó có quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận tháng 12-1993.
SHO - Chào mừng 104 năm ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 và 1974 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng, chiều ngày 7/3, Liên hiệp các Hội VHNT và Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Thiên Huế đã tổ chức khai mạc triển lãm “Tặng phẩm tháng Ba” tại số 26 Lê Lợi, Huế.
46 tuổi mới có được triển lãm nghệ thuật đầu tiên nhưng chừng đó thời gian trở về sau cũng đủ dựng nên tượng đài sừng sững Điềm Phùng Thị - tên tuổi tiêu biểu của nền nghệ thuật điêu khắc thế giới thế kỷ XX. Nhưng, trước khi trở thành một nghệ sĩ lớn, nhiều người quên mất bà cũng đã là một bác sĩ tài đức.
Nếu như làng cổ ở Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) mang dáng dấp đặc trưng của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, thì làng cổ Phước Tích (Phong Hòa, huyện Phong Điền, Thừa Thiên - Huế) lại còn khá nguyên vẹn những yếu tố gốc của làng cổ vùng văn hóa Huế và miền Trung.
Nét trầm mặc cổ kính, đêm Hoàng Cung huyền diệu tái hiện lịch sử của chốn lầu son hay những lời ca ngọt ngào trên sông Hương đã tạo nên một Huế mộng mơ hấp dẫn du khách.
Nhà thơ Võ Quê vừa sưu tầm và ấn hành tập 1 Lời ca Huế (NXB Thuận Hóa) với 11 tác phẩm của Á Nam Trần Tuấn Khải, Tản Đà, Bửu Lộc… và các tác giả khuyết danh nhằm giới thiệu một cách đầy đủ phần lời các bài ca Huế vốn tồn tại dưới hình thức truyền khẩu. TT&VH có cuộc trò chuyện với ông về công việc thầm lặng này.
Tuồng Huế, đã có nhiều cuộc hội thảo với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nghệ sĩ lừng danh, tất cả đều đặt ra câu hỏi làm thế nào để bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật đã một thời được xem là quốc kịch dưới triều nhà Nguyễn.
(SHO). Bộ VHTTDL vừa có văn bản gửi Bộ Quốc phòng về việc tổ chức Lễ công bố quyết định và đón bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh.
(SHO) Bộ VHTTDL vừa có ý kiến thẩm định Báo cáo KTKT phục dựng nhà thờ cụ Tôn Thất Thuyết của Sở VHTTDL tỉnh Thừa Thiên Huế.
Hội Nhà văn TT-Huế hiện có 90 hội viên, trong đó đa số là nhà thơ, là con số đáng tự hào. Mỗi năm, các nhà văn trẻ ở Huế xuất bản hàng chục đầu sách. Có người trong vài năm in ba đầu sách. Anh em cũng được đi dự nhiều trại sáng tác, nhiều chuyến đi thực tế ở nhiều tỉnh, thành phố. Hội cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, giới thiệu tác giả tác phẩm, làm cho không khí sáng tác ngày càng sôi động. Tất cả những hoạt động đó đã giúp anh em có thêm kinh nghiệm, vốn sống để sáng tác nhiều tác phẩm mới.
(SHO) Sáng nay, 19/2/2014, ông Trần Thanh Bình - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy làm việc với Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh, yêu càu cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng Tượng đài 11 cô gái Sông Hương.
Di tích Thanh Bình Từ Đường nằm sâu 50m trong kiệt 281, đường Chi Lăng (TP Huế). Sức hấp dẫn của ngôi từ đường được xếp vị trí loại 1 di tích văn hóa cấp quốc gia.
Những cụ bà ở tuổi xưa nay hiếm, tóc bạc trắng, lưng còng, rưng rưng lệ khi được dòng họ vinh danh nàng dâu hiếu thuận.
Hòa trong không khí vui tươi của những ngày đầu xuân mới, hưởng ứng Ngày thơ Việt Nam với chủ đề Mùa xuân - Tuổi trẻ - Tổ quốc, tối ngày 15/2/2014 ( tức ngày 16 tháng Giêng năm Giáp Ngọ), tại Trung tâm Văn hóa Thông tin huyện Quảng Điền, Phòng Văn hóa huyện đã tổ chức chương trình thơ nhạc đầy cảm xúc.
(SHO) - Đêm thơ đã có sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà thơ đến từ Liên hiệp Các Hội VHNT tỉnh, Hội thơ Hương Giang, CLB Hương Thơ Xứ Huế, CLB thơ Hương Xuân, CLB thở Thuận Lộc, CLB thơ Bến Hẹn – Huế, CLB thơ Tam Giang. Tất cả tạo nên một không gian giao lưu, kết nối những tiếng vọng thơ nồng nàn trong đêm xuân rằm tháng Giêng...
Hàng chục năm qua, ngư dân ở thôn Ngư Mỹ Thạnh, xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền (Thừa Thiên - Huế) đã gắn bó với nghề “theo đuôi tôm, cá” trên phá Tam Giang. Nhờ cần mẫn mưu sinh và sự dám nghĩ, dám làm mà trong thôn xuất hiện nhiều “triệu phú” với thu nhập mỗi năm lên đến hàng trăm triệu đồng...
Nằm phía Đông Nam Kinh thành Huế, khu phố cổ Gia Hội là nơi tập trung nhiều địa điểm tâm linh độc đáo của Huế. Đến với nơi đây, du khách sẽ tìm lại được sự thanh thản, sự tĩnh lặng cần thiết để quên đi phần nào những xô bồ của cuộc sống hiện đại.
Nhân ngày thơ Việt Nam lần thứ XII, tối ngày 13/02 (14 tháng Giêng năm Giáp Ngọ), tại Nghinh Lương Đình (Huế) đã diễn ra chương trình Thơ Nguyên Tiêu với chủ đề Mùa xuân - Tuổi trẻ và Tổ quốc.
Ngày 9/2, chúng tôi gồm bốn người, đăng ký xe lên tham quan vườn tại Trung tâm Dịch vụ du lịch sinh thái và giáo dục môi trường thuộc Vườn quốc gia Bạch Mã (thị trấn Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế).
Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc (đại diện tại Thừa Thiên – Huế) cho biết, hoàng tử Vĩnh Diêu, vị hoàng tử cuối cùng của triều Nguyễn qua đời tại Houston, bang Texas, Mỹ lúc 12 giờ (giờ Việt Nam) ngày 12-2.