Trường học và tâm hồn

15:26 03/06/2008
Hãy về đây, về đây những ký ức buồnTa muốn nhớ mà không muốn khócLAMARTINE


Năm 1947, hoạt động bí mật ở nội thành Huế bị lộ, để tránh giặc truy lùng, tôi nhảy lên chiến khu Thừa Thiên, một thời gian sau ra Ba Lòng, trèo đèo lội suối, vượt dốc Liên U Bò Ba Rền ra Hương Khê, học năm đệ tứ rồi về Huỳnh Thúc Kháng (từ Bộng dời về Châu Phong) để vào chuyên khoa văn.
Học sinh trường hồi đó phần đông là cán bộ, bộ đội, đảng viên tạm ngừng hoạt động, chiến đấu để bổ túc văn hóa. Có anh chị lớn hơn tôi 5, 3 tuổi. Tổ nữ sinh Bình Trị Thiên sống nhờ nhà dân trong cùng một xóm. Với tuổi 17, 18 mọi sự dường như đơn giản và tốt đẹp: cơm “phạn điếm” miếng cháy cũng quý, khoai sắn dân cho cũng ngon, các chú bác ra vào khu Bốn thỉnh thoảng cho tiền, cho quần áo, rồi ra thỉnh thoảng cũng rủ nhau ghé vào quán làm dĩa bánh cuốn hoặc bát sốt vang nóng rẫy chua cay.
Tối tối bài vở xong xuôi, các bạn nhắc: Tân Nhân hát đi! Con thuyền không bến - Đêm đông - Bà mẹ Gio Linh...
Mọi người thổi đèn, có vị lên giường... còn tôi thích nhất là ra vườn, không gian thoáng đãng, mùi cây cỏ mát thơm, ra sức hát thật vang, tiếng hát càng cao càng xa càng thỏa chí.
Thích thì hát chứ thuở đó cả gia đình, bạn bè và cả tôi không bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó mình sẽ trở thành ca sĩ - nghề đó còn xa lạ với tầng lớp chúng tôi thời bấy giờ.
Sinh trong một gia đình nhà nho hay chữ, nhưng ba tôi ham kinh doanh, từ bé tôi đã theo ông sang Vientiane (Lào) học trường Tây, lên tám ông cho tôi vào kinh đô học và sau đó vào ký túc xá trường Đồng Khánh. Ông thường gọi đùa tôi là Doctoresse TN hay Avocate TN , đốc tờ TN hay luật sư TN. Mẹ tôi hò hát hay nổi tiếng vùng quê. Cứ hò đối đáp bên nào có bà là chắc phần thắng. Tiếng ru ấm ngọt của bà đã để lại trong tâm hồn chúng tôi những dư âm mãi không phai nhạt với âm điệu tiếng Quảng Trị cứ ngân cao mãi ở cuối đuôi nghe sao tha thiết. Dân làng tôi vốn có truyền thống hiếu học và ham văn nghệ. Các gia đình đều cố đùm bới cho con lên tỉnh hay vào Huế học; vào các dịp nghỉ, các anh về làng tụ tập viết báo, bình thơ, diễn kịch. Một lần anh T.K, anh họ tôi đạo diễn vở Sát Thát, tôi mới 13 tuổi, các anh cho vận đồ tang ra sân khấu, vừa ca lên mấy câu theo điệu bài chòi: “Cảnh Hoàn ơi! bôn ba chi cho dạ mãi tơi bời, cho nặng nợ lửa hương cho lỡ lời non nước!...”.
Bà con ở dưới sụt sịt khóc cả lượt, mẹ tôi nổi giận la: “Em con nhỏ dại mà cho hát chi thảm rứa!”.
Vừa may chị họ tôi từ trong cánh gà bước tiếp ra, đầu chít khăn đóng, giả nam, miệng cười ruồi, mọi người ồ lên cười “Coi kìa! cái ông Phiên con!” (chị giống cha như lột).
Tôi rất hay hát. Ở Đồng Khánh bắt chước các chị hát bài Tây (Santa Lucia - Sérénade - Tant qu’il y aura des étoiles) rất mê Tino Rossi - được bà Hiệu trưởng Martin chọn múa đôi với Aliettes bạn học người Pháp, được sung vào đồng ca với các chị, giọng hát rất trầm và vang to.
Tới thời học ở Huỳnh Thúc Kháng, năng khiếu văn nghệ của tôi được bồi bổ dần thêm qua thực tế.
Bài thơ ruột của tôi hồi đó là bài thơ anh Huy Phương viết tặng cho em gái Thanh Hương ở Việt Bắc.
Vở kịch “Những người ở lại” của Nguyễn Huy Tưởng đã gây nhiều ấn tượng tốt đẹp: Ngọc Dung thủ vai vợ bác sĩ, đóng khá già giặn. Tôi được phân vai Lan - với bộ áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, vừa ló ra khỏi cánh gà, chưa kịp diễn xuất, cả hội trường rào rào tiếng vỗ tay, tiếng la hò cổ vũ... quả thật không hiểu nổi vì sao lại được mến mộ như thế - phải chăng mình có duyên nợ với cái nghiệp văn công.
Cuối năm đệ nhất văn Huỳnh Thúc Kháng, cùng với đợt ào ạt vào lục quân khu IV, ra Việt Bắc nhận công tác của các anh chị, tôi gia nhập đoàn văn công Mặt trận bộ Bình Trị Thiên và Trung Lào do hai anh Bửu Tiến, Đình Quang lãnh đạo vào chiến trường phục vụ bộ đội.
Đó là thời kỳ gian khổ nhất của chiến trường Bình Trị Thiên: cơm gạo thối chỉ hơn lưng bát mỗi bữa, thức ăn là nước “ruốc” thằn lằn chạy qua thấy rõ (theo cách nói của cánh bộ đội), rau tàu bay độn thêm cho đỡ rỗng bụng. Có lần tôi sốt rét gầy yếu quá, anh Bửu Tiến đưa cho một miếng đường đen và giễu: “Hỡi nàng công chúa vô sản (princesse prolétarienne), ưu tiên nàng!”. Tôi mừng quá vì đau đầu, nhạt miệng... Nhạc sĩ chỉ huy Cao Xuân Hạo ra hiệu ngầm xin một nửa.
Hiệu quả hoạt động của đoàn bấy giờ hạn chế - địch luôn rập rình càn lên chiến khu.
Một lần, chúng tôi bị bao vây mọi phía: trên trời máy bay, dưới sông ca nô, trên bộ vây quanh... Bị bất ngờ, chúng tôi từng tốp theo hướng núi xanh mà chạy, nhóm tôi có 6 người, 4 đứa là con gái chui vào rừng sâu, đứt liên lạc với chỉ huy mất mấy ngày.
Tiếng đồn ra trường Huỳnh Thúc Kháng là Tân Nhân bị chết trong trận càn, một anh bạn học cùng quê truy điệu tôi bằng một bài hát “Xuân chết trong lòng tôi”.
Cả trường đã hát, đã khóc, đã xót thương tôi ra đi quá trẻ.
Xuân ơi xuân, chim xa đàn
Xuân ơi xuân...
Ngờ đâu xuân chết trong lòng tôi, trong tiếng đàn...
Nhưng tôi đâu đã chết! Một thời gian sau Bộ chỉ huy cho một số ít cùng lứa tuổi tôi trở ra học tiếp.
Trên chuyến đò dọc Châu Phong - Bạch Ngọc, K.Đ, một bạn gái lớp dưới đã hát bài ấy cho tôi nghe với lời bình: “Phải có một tình yêu sâu sắc lắm anh ấy mới điên dại khi hay tin chị chết, đã cầm roi quất ngang dọc trên các nẻo đường Bạch Ngọc mà khóc và viết lên bài ấy.”
Ôi! chim xa cành
Trùng phùng xa lắm... Chiều vàng nhạt nắng đưa
hồn về nơi đâu?!
Với nỗi xúc động thơ trẻ chứa chan, tôi thầm nghĩ:
- Biết là chết rồi mà vẫn yêu thương, tiếc nuối... Phải chăng đó là tình yêu chung thủy?...
Xót xa thay, đó lại là mối tình bất thành: trong chuyến về thăm nhà vùng tạm chiếm, anh bị kẹt và từ đó chúng tôi mãi mãi cách chia.
Thân em như giọt mưa sa...
Tôi đã trải qua những tháng ngày sóng gió, đầy thử thách nặng nề trong thân phận người con gái, không gia đình, không nhà cửa, không tiền, không nghề nghiệp...
Cuộc đời sẽ ra sao nếu bên tôi không có Đất mẹ với Nhân dân, không có mái trường thân yêu Huỳnh Thúc Kháng đã nâng bước tôi đi. Quên sao được các thầy cô xiết bao hiền từ, nhân hậu. Bố một anh bạn cũng là một người thầy đỡ đầu và chăm sóc tôi như con đẻ. Nhân dân địa phương nhận tôi vào trường dạy học. Tôi đã chằm nón, kéo sợi, dệt vải để kiếm thêm, các bạn học an ủi động viên tôi, có bạn hẹn khi ra trường sẽ làm việc nuôi nấng mẹ con tôi, các bạn tặng thơ, làm bài hát cho tôi biểu diễn. Chồng yêu quí của tôi quê ở Hương Sơn cũng là một học sinh Huỳnh Thúc Kháng, chính anh đã bao bọc tôi trọn đời trong tình yêu thủy chung và cao thượng.
Số phận đưa đẩy tôi vào trường nghệ thuật. Tôi đã biểu diễn nhiều năm trong và ngoài nước, tiếng hát tôi luôn luôn đầy đặn tình người, tình xứ sở.
Rất nhiều học sinh Huỳnh Thúc Kháng về sau trở thành danh tiếng: Anh hùng, Bộ trưởng, Giáo sư, Bác sĩ, những nhà nghiên cứu khoa học, những văn nghệ sĩ tài năng...
Riêng tôi cũng được nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.
Cảm ơn đất mẹ, cảm ơn mái trường Huỳnh Thúc Kháng, cảm ơn tấm lòng con người thuở ấy - một thuở khó, nghèo mà tình nghĩa rất đỗi bao dung, nồng hậu.
Hà Nội, ngày 01-01-1995

TÂN NHÂN
(nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).

  • PHAN THUẬN THẢONhạc chương, theo cách hiểu thông thường, là những bài hát dùng trong nghi lễ ở triều đình, tông miếu. Thể loại ca nhạc nầy có nguồn gốc lâu đời trong văn hóa Trung Hoa cổ đại, là một phần quan trọng trong Nhã nhạc của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Trong quá trình tiếp thu Nhã nhạc từ Trung Hoa, Việt cũng đã tiếp nhận hình thức ca nhạc đặc biệt nầy.

  • MINH PHƯƠNGCó những ca khúc ấp ủ mãi hàng tháng viết vẫn chưa xong, nhưng cũng có ca khúc chỉ vài tiếng đồng hồ là bật ra ngay.Ca khúc Nắng tháng Ba của nhạc sĩ Trần Hoàn viết trong một đêm thành Huế vừa giải phóng.

  • NGUYỄN THỤY KHANói đến Bằng Việt, bạn đọc thường hình dung tới một "Bằng Việt nhà thơ", "Bằng Việt dịch thuật". Và có một thời kỳ còn thêm một" Bằng Việt phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội". Nhưng để hình dung ra một "Bằng Việt văn xuôi" thì chắc ít người biết đến. Nhưng đã có một "Bằng Việt văn xuôi" với một tác phẩm viết về "Thần đồng âm nhạc thế giới" W.A. Mozart. Vậy là "Bằng Việt văn xuôi" này trước hết phải là một người nghe nhạc giao hưởng sành điệu. Đọc "Mozart" qua Bằng Việt, ta hoàn toàn thấy rõ lợi thế ấy.

  • VĨNH PHÚCNhạc lễ (cung đình) là một thể loại của âm nhạc cung đình, bao gồm toàn bộ loại nhạc nghi thức và tế lễ của triều đình. Trong quá khứ, theo một số tư liệu rất ít ỏi còn lại, có lúc, đã được các sử gia phong kiến gọi chung là Nhã nhạc.

  • NGUYỄN THỤY KHALTS: Một Văn Cao nhạc sĩ, thi sĩ hay hoạ sĩ thì ai cũng đã biết, còn một Văn Cao "hiệp sĩ" trong Đội cảm tử hy sinh vì độc lập nước nhà thì ít người được biết. Nhân kỷ niệm 57 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, đồng thời cũng là dịp hành khúc Tiến quân ca của Văn Cao được cất lên một cách nghiêm trang và thiêng liêng trong tư thế Quốc ca, Sông Hương xin được thông tin thêm về nhạc sĩ Văn Cao với tư cách là "Người công an thân yêu".

  • BỬU NAM LTS: Nhân giỗ đầu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Sông Hương xin dành chuyên mục này để giới thiệu một số bài viết về anh. Dù cách nhìn, cách đánh giá hiện thời còn có chỗ khác nhau nhưng chắc chắn rằng tên tuổi và nhạc phẩm Trịnh Công Sơn sẽ còn mãi với mai sau.    

  • HỒ VĨNHCa khúc “Ướt mi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn do Nhà xuất bản An Phú-Sài Gòn phát hành năm 1959. Đó là năm tôi cất tiếng khóc chào đời ở một phường xưa Thành Nội Huế.

  • NGUYỄN KHẮC THÀNHGiuseppe.Verdi sinh ngày 12 tháng 10 năm 1813 tại thị trấn Bosseto thuộc tỉnh Parma, Ý. Cha ông là người canh giữ quán trọ, mẹ làm nghề quay tơ. Khi còn là đứa trẻ lên 3, ông đã sớm thể hiện tài năng âm nhạc của mình.

  • HOÀNG HUẾNgười nhạc sĩ lão thành từ từ bước ra sân khấu. Mái tóc anh bạc phơ như tóc tiên ông, và đôi mắt thì long lanh sâu thẳm, tưởng chừng chứa hết cuộc đời. Ồ, cuộc đời dài của một nghệ sĩ, dĩ nhiên đan kín những nỗi buồn vui, kể từ cái ngày hơn nửa thế kỷ trước, khi còn là chàng thanh niên trẻ măng, anh cống hiến cho đời bài hát “Dư âm” bất hủ.

  • Ca khúc “Ướt mi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn do Nhà xuất bản An Phú-Sài Gòn phát hành năm 1959, đó là năm tôi cất tiếng khóc chào đời ở một phường xưa Thành Nội Huế.

  • Sáng 26/3/2008, Học viện Âm nhạc Huế công bố Quyết định thành lập Học viện của Thủ tướng Chính phủ và chính thức ra mắt.