Trương Đăng Dung: Hành trình đến với phương thức tồn tại của tác phẩm văn học

10:55 16/09/2008
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆPNhững ai gần Trương Đăng Dung, thường nghe anh nói nhiều về các loại giới hạn: giới hạn của đời, sự phi lý của cõi nhân sinh, sự cản trở của những tín điều xưa cũ...

Tôi nhận thấy đây đó trong những chuyện trà dư tửu hậu của Trương Đăng Dung hơi hướm của F.Kafka, người đã hoá thân vào tâm trí anh qua bản chuyển Việt ngữ tiểu thuyết Lâu đài. Nhưng những ai tinh ý đều nhận thấy phía sau tiếng thở dài về các giới hạn của Trương Đăng Dung là ý thức và mong ước vượt qua các giới hạn. Thì đời mình nó ngắn ngủi là thế, xung quanh mình đầy rẫy các loại giới hạn nhân tạo và thiên tạo như thế, cố mà tìm lấy một ý nghĩa sống sao cho hợp với cái thể tạng, nội lực sở trường của mình chính là một nhu cầu tự thân. Khởi đầu có thể là một niềm thích thú, sau nữa sẽ là hạnh phúc nếu có ai đó tìm đến sẻ chia, thông cảm cho sự cô đơn và cực nhọc của mình. Rất có thể, cái triết lý về các loại giới hạn kia đã ám vào Trương Đăng Dung để anh biết cách thoát vượt qua sự nhẹ bổng của kiếp nhân sinh. Hay nói theo ngôn ngữ của Trương Đăng Dung, mọi nỗ lực khoa học suy cho cùng là hành trình để vươn tới giới hạn của cái chưa biết. Sức hấp dẫn của khoa học và sự mời gọi của nó nằm chính trong những điều chưa biết ấy.

Là người được đào tạo một cách chính quy và bài bản nên cách làm khoa học của Trương Đăng Dung có bài bản cũng là điều dễ hiểu. Những ai không tường tận cách làm này sẽ thấy sốt ruột, còn Trương Đăng Dung thì không. Anh cứ lẳng lặng một mình một ngựa Thét roi cầu Vị ào ào gió thu. Trương Đăng Dung là người có ý thức về công việc của mình và thực trạng nghiên cứu lý luận ở Việt . Đã hơn một lần anh cho rằng do mơ hồ trước đối tượng nghiên cứu của lý luận văn học, người ta đã đồng nhất sự phân tích tác phẩm văn học trong lịch sử văn học phê bình văn học với sự phân tích vấn đề tác phẩm trong nghiên cứu lý luận văn học, nơi vai trò của những khái quát hoá lý luận và việc tiếp cận bản thể tác phẩm văn học đều xảy ra trên bình diện trừu tượng. Các công trình khoa học của Trương Đăng Dung đều cho thấy sự nhất quán trong việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu và hướng đi riêng của anh. Đây là điều không dễ đối với những ai muốn suốt đời thủy chung với lý luận văn học. Đó là chưa nói đến chuyện, những người chủ trương làm lý luận thuần tuý như Trương Đăng Dung không hề có sự hậu thuẫn từ phía truyền thống. Không còn cách nào khác, anh phải biết tự vượt giới hạn. Đường đi của Trương Đăng Dung trải qua hai chặng rõ nét. Chặng đầu tập trung nghiên cứu chủ thể sáng tạo và nhận thấy sự bất cập của mô hình văn học phản ánh hiện thực. Chặng sau nghiên cứu chủ thể tiếp nhận trên quan điểm của mĩ học tiếp nhận hiện đại và hậu hiện đại.

Vào những năm tám mươi của thế kỷ XX, sau thời gian tu nghiệp ở Budapest trở về, Trương Đăng Dung tập trung nghiền ngẫm G. Lukacs và Ch. Caudwell. Anh đã trích dịch một phần sang tiếng Việt hai tác phẩm quan trọng là Đặc trưng mĩ học của Lukacs và Ảo ảnh và hiện thực của Caudwell trước khi nghiên cứu họ. Sở dĩ Trương Đăng Dung chọn hai tác giả này vì cả hai đều là những nhà lý luận macxit thứ thiệt, nhưng rõ ràng trong hệ thống khoa học của họ có những nét khác nhau. Nếu Lukacs cho rằng đối tượng của khoa học cũng là đối tượng của nghệ thuật thì Caudwell lại nhấn mạnh đến sự phản ánh “thế giới bên trong” của nghệ thuật. Sự khác biệt giữa họ được Trương Đăng Dung khái quát một cách chính xác: “Lukacs gắn bó với yêu cầu về chủ nghĩa hiện thực, về tính chân thực của sự phản ánh, còn Caudwell nhấn mạnh tính chân thực của thái độ và tư tưởng của nhà văn, tức là nhấn mạnh vai trò của chủ thể sáng tạo”. Quan điểm này của Caudwell rõ ràng cởi mở hơn rất nhiều so với quan niệm phổ biến lúc bấy giờ vốn đề cao vai trò của khách thể phản ánh. Sự hợp lý trong tư tưởng của Caudwell còn thể hiện ở chỗ, trong công trình ảo ảnh và hiện thực nổi tiếng của mình, ông đã nhận thấy vấn đề không chỉ là phản ánh hiện thực mà còn phải chú ý thích đáng đến “sự đối thoại và mong muốn về hiện thực của người nghệ sĩ”. Rõ ràng Caudwell đã khơi mở những vấn đề lý luận từ cái nhìn hiện đại. Quan điểm này của Caudwell có phần gặp gỡ với tư tưởng đối thoại mà M. bakhtin từng đề xuất trong công trình Những vấn đề thi pháp Doxtoievxki của ông xuất bản lần đầu vào năm 1929. Để minh chứng cho quan niệm mới về chủ nghĩa hiện thực, Trương Đăng Dung chọn dịch một số tác phẩm của
Kafka trong đó đáng chú ý nhất là tiểu thuyết Lâu đài. Trong con mắt của nhiều nhà nghiên cứu văn học, F.Kafka được coi là nhân vật đã làm thay đổi mô hình phản ánh hiện thực bằng những tác phẩm sâu sắc, thể hiện sự suy tư không ngừng về sự phi lý của con người trong thế giới hiện đại. Chính sáng tác của Kafka là sự bổ sung hùng hồn nhất về chiều kích phản ánh hiện thực trong tính đa dạng và sâu thẳm của nó. Trong Lời giới thiệu bản dịch tiểu thuyết này, Trương Đăng Dung nhận xét một cách tinh tế: “Hình ảnh của Kafka là hình ảnh của cõi mộng, của những cơn ác mộng có nguồn gốc từ nỗi hoang mang lo sợ trước thế giới. Điều đó làm nên đặc trưng của thế giới của Kafka”. Đây chính là thứ hiện thực tự cảm thấy trong văn học mà có lần tôi đã đề cập đến trong quyển Vọng từ con chữ của mình. Thậm chí, một giấc mơ cũng cần được hình dung như một phía khác của hiện thực. Nói đúng hơn, đó là thứ hiện thực bề sâu - thứ hiện thực mà chỉ những tài năng đích thực mới đủ sức khám phá và thể hiện.

Sau hơn mười năm nghiên cứu về mô hình phản ánh và nhận thấy những hạn chế của nó, Trương Đăng Dung muốn tìm đến những nguồn lý luận mới để bổ sung. Tại đây, anh nhận thấy những mặt khả thủ trong mĩ học và lý luận văn học phương Tây. Dĩ nhiên, đến với chân trời lý luận mới, Trương Đăng Dung không có ý phủ nhận những yếu tố khoa học của mĩ học và lý luận văn học macxit mà anh muốn đưa ra những kiến giải mới để làm cho lý luận văn học thực sự trở thành khoa học với đúng nghĩa của nó. Điều đó đã được hiển thị phần nào trong công trình Các vấn đề của khoa học văn học mà Trương Đăng Dung là tác giả chính. Khi tiếp xúc với tinh hoa lý luận phương Tây, Trương Đăng Dung nhận thấy một thực tế: mĩ học macxit chủ yếu quan tâm đến bình diện nội dung tư tưởng mà chưa nói nhiều  đến ngôn ngữ, trong khi, lẽ ra phải thấy văn học là nghệ thuật của ngôn từ, chất liệu của văn học là ký hiệu, là ngôn ngữ, và sự sáng tạo trong văn học trước hết là sự sáng tạo về ngôn ngữ, về cách nói của nhà văn. Ngôn ngữ trong văn học không đơn giản là cái vỏ của tư duy mà nó cũng chính là tư duy, là yếu tố có khả năng sinh tạo tư tưởng. Chính M. Bakhtin cũng từng nhấn mạnh đến vai trò của ngôn ngữ và tính đối thoại của tư tưởng chính trong ngôn ngữ. Rõ ràng, mô hình ngôn ngữ mới đích thực là mô hình làm nổi rõ bản chất của văn học. Đây là giai đoạn có sự chuyển đổi đáng chú ý trong sự nghiệp khoa học của Trương Đăng Dung. Anh đặc biệt quan tâm đến hiện tượng học và triết học ngôn ngữ, từ đó hướng đến những thành tựu mới nhất của mĩ học tiếp nhận. Bằng sự nhạy bén của mình, Trương Đăng Dung nhận thấy sự dịch chuyển trong tư duy triết học hiện đại: từ triết học tự nhiên, các nhà triết học chuyển dần sang triết học nhân sinh. Triết học nhân sinh cho thấy một thực tế hiển nhiên: thế giới không chỉ được cảm nhận bằng đôi mắt duy lý, khách quan mà còn bằng sự cảm nhận nhiều chiều của chủ thể.

Đối tượng cơ bản nhất của triết học nhân sinh chính là con người với toàn bộ sự phức tạp khôn lường của nó. Trong khi đó, hiện tượng học của Husserl và của M. Heidegger lại khẳng định thế giới tồn tại thông qua chủ thể. Trong đôi mắt của các nhà hiện tượng học, khách thể không có nghĩa, chính chủ thể mới là người cấp nghĩa. Bàn về ngôn ngữ, M.Heidegger đặc biệt chú ý đến vai trò của ngôn ngữ trong việc tạo lập thế giới. Ngôn ngữ không chỉ chuyển tải ý nghĩa của người phát ngôn mà chúng có thể tạo nên một thế giới độc lập. Đây chính là sự phản bội của ngôn ngữ và ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu thể. Chuyển sang nghiên cứu mĩ học tiếp nhận, Trương Đăng Dung nhận thấy có sự khác biệt giữa văn bản và tác phẩm văn học. Đó là lý do khiến anh cất công đi tìm phương thức tồn tại của tác phẩm văn học. Không phải ngẫu nhiên mà thời gian này Trương Đăng Dung tiến hành dịch và giới thiệu hàng loạt công trình nổi tiếng của Martin Heidegger (Trên đường đến với ngôn ngữ), Roman Ingarden (Tác phẩm văn học), Hans Robert Jauss (Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học), Paul Ricoeur (Văn bản là gì?)... Những lý luận này, một mặt, làm hậu thuẫn cho các luận điểm khoa học của Trương Đăng Dung, mặt khác, cho thấy anh có ý thức nghiên cứu văn học trong tính hệ thống, triển khai các vấn đề học thuật từ gốc rễ chứ không đơn giản chỉ là hớt ngọn!
Tôi cho rằng, sự nhạy bén của Trương Đăng Dung xuất phát từ chỗ anh am hiểu sâu sắc sự vận động của tư duy lý luận, và nếu như lý luận truyền thống nghiêng về nghiên cứu chủ thể sáng tạo, lý luận hiện đại nghiêng về văn bản thì lý luận hậu hiện đại quan tâm đến tiếp nhận văn học. Đây cũng là ba khâu của diễn trình văn học tính từ vĩ mô đến cấp độ vi mô. Công trình đánh dấu sự chuyển đổi quan trọng này trong hành trình nghiên cứu của Trương Đăng Dung là tiểu luận tác phẩm văn học như một quá trình được in trên Tạp chí Văn học năm 1996. Tôi nhớ, lúc đó, GS.Trần Đình Sử là người đầu tiên nói với tôi đây là một tiểu luận xuất sắc của Trương Đăng Dung. Trong cái nhìn của lý luận văn học hiện đại, nhà văn là người sáng tạo nên văn bản, nhưng bản thân văn bản chưa là tác phẩm văn học với đúng nghĩa của nó. Nó chỉ là một “sơ đồ mời gọi”, một “kết cấu vẫy gọi”. Về điều này, J.M.Lôtman khẳng định: “Định nghĩa được văn bản là một việc khó. Trước hết cần loại bỏ quan niệm đồng nhất văn bản với toàn bộ tác phẩm”. Chính người đọc, bằng toàn bộ kinh nghiệm thẩm mĩ của mình, khi chạm vào tác phẩm đã đánh thức “nàng công chúa ngủ trong rừng”, và lúc đó, sinh thể nghệ thuật mới hiện lên toàn vẹn và tác phẩm mới trở nên đầy đặn. Như vậy, tác phẩm chỉ được hình thành thông qua sự đọc và chỉ thực sự trọn vẹn trong cảm nhận của người đọc mà thôi. Thực ra, lĩnh vực tiếp nhận văn học không chỉ riêng Trương Đăng Dung quan tâm. Nó cũng được các nhà khoa học khác như Trần Đình Sử, Nguyễn Văn Dân... lưu tâm nghiên cứu. Tuy nhiên về lĩnh vực này, có thể nói Trương Đăng Dung là người chuyên tâm hơn cả. Những ý tưởng học thuật về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học đã được khai triển, đào sâu và làm phong phú thêm trong công trình Tác phẩm văn học như là quá trình xuất bản năm 2004. Đọc những công trình lý luận của Trương Đăng Dung, dễ nhận thấy anh không chỉ tiếp thu, giới thiệu mà còn tiến hành đối thoại trên tinh thần khoa học. Chính tinh thần đối thoại đã giúp cho Trương Đăng Dung đưa ra các kiến giải riêng của anh, trong đó, đáng chú ý là những kiến giải về tác phẩm văn học và tiếp nhận văn học. Theo Trương Đăng Dung, mỗi một lần đọc văn bản là một lần người đọc lại “vấp ngã”. Tính đa nghĩa và độ mở của văn bản khiến cho những cách lý giải về nó đều có cơ hội tồn tại và trên thực tế, không thể có kết luận cuối cùng về giá trị tác phẩm. Đây là cái nhìn thể hiện cảm quan hậu hiện đại khi nói về đời sống tác phẩm trong tương quan với chủ thể tiếp nhận.

Khi chỉ ra sự khác biệt giữa văn bản và tác phẩm, Trương Đăng Dung có cái nhìn mới về bản chất của tác phẩm văn học. Nêu lên phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, anh đề cập đến hai vấn đề: một là tính chất ngôn ngữ, cái quyết định đặc trưng văn học của văn bản; hai là khả năng tạo lập một đời sống cụ thể của văn bản văn học thông qua người đọc. Đây là những đóng góp đáng quý của Trương Đăng Dung vào ý thức đổi mới và hiện đại nền lý luận văn học nước nhà. Trong thời gian gần đây, sau khi nghiên cứu kỹ H.G.Gadamer, H.R.Jauss, P.Ricoeur, J.Derrida và giải cấu trúc, Trương Đăng Dung nhận thấy nhiều nhà khoa học muốn đẩy lý luận văn học vươn đến tầm triết học. Có lẽ vì thế mà Trương Đăng Dung đã mở hướng đi từ hiện tượng học đến tường giải học theo cách riêng của anh. Con đường ấy chắc sẽ rất dài và đòi hỏi sự nhọc lòng mà Trương Đăng Dung hẳn đã ít nhiều lường thấy. Phần mình, tôi nghĩ, Trương Đăng Dung có đủ phẩm chất để thiết tạo nên hệ thống khái niệm lý luận bằng thứ ngôn ngữ lý luận của riêng anh. Hệ thống ấy, Trương Đăng Dung muốn hình thành trên năng lực tư biện khoa học có tính trừu tượng mà anh đã học được ở nhiều học giả phương Tây và cũng là niềm ấp ủ của anh từ ngày còn trai trẻ. Thực tình, trong một lần nói chuyện với Trương Đăng Dung cách đây quãng chừng một con giáp, tôi có hỏi vì sao anh không vận dụng những lý luận hiện đại để nghiên cứu văn học Việt Nam. Tôi hỏi vậy vì biết anh là người đã từng dịch Truyện Kiều sang tiếng Hunggari khi chưa đến tuổi ba mươi, là người từng có thơ in trên Văn Nghệ cuối những năm bảy mươi của thế kỷ trước. Ngoài ra, anh là chỗ bạn bè thân thiết của những cây bút gạo cội như Nguyễn Huy Thiệp... Nhưng Trương Đăng Dung chỉ mỉm cười, im lặng. Tôi hiểu, mối quan tâm của Trương Đăng Dung nằm ở phía khác. Đó là những trăn trở về lý luận văn học như một siêu khoa học. Rõ ràng, phải có một niềm tin và một tình yêu mãnh liệt như thế nào đó Trương Đăng Dung mới dấn thân quyết liệt đến thế trong con đường khoa học đầy thử thách, chông gai.

Tuy nhiên, giờ đây, điểm xuất phát của anh đã cao hơn và vững chãi hơn nhiều. Từ công trình Từ văn bản đến tác phẩm văn học (Nxb KHXH, 1998) đến Tác phẩm văn học như là quá trình (Nxb KHXH, 2004), Trương Đăng Dung đã xác lập được hệ thống của riêng mình. Không ít những luận điểm khoa học của Trương Đăng Dung đã đi vào đời sống và được nhiều người vận dụng. Nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đánh giá cao hướng tìm tòi mới mẻ và hiện đại của Trương Đăng Dung. Bản thân Trương Đăng Dung cũng luôn muốn được chia sẻ những nghiền ngẫm của mình với đồng nghiệp, với các lớp nghiên cứu sinh mà anh từng giảng dạy ở các Trường đại học và các Viện nghiên cứu trong cả nước. Trong các công trình khoa học, Trương Đăng Dung là người hay nói đến sự vận động, và bất cứ sự vận động nào cũng là một quá trình. Nếu hiểu như thế thì các ý tưởng khoa học của Trương Đăng Dung cũng chính là quá trình khiêu khích các giới hạn để vươn đến những giới hạn khác. Mà ý thức vượt lên các giới hạn thì vẫn còn nguyên vẹn trong nhiệt huyết khoa học của Trương Đăng Dung. 
Mùa Giáng sinh 2006
N.Đ.Đ

(nguồn: TCSH số 227 - 01 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.