Trở về ký ức

14:26 08/06/2021

JASON HELMANDOLLAR

Jason Helmandollar là một nhà văn người Mỹ, tác giả của nhiều truyện ngắn nổi tiếng được đăng trên các báo, tạp chí đang thịnh hành lúc bấy giờ như Encounters Magazine, Bartleby Snopes, Title Goes Here, Sideshow Fables. “The Backward Fall” là một trong những truyện ngắn hay và hấp dẫn của ông.

Ảnh: internet

Ở truyện ngắn này, tác giả đã thể hiện xuất sắc những cung bậc cảm xúc đa dạng của các nhân vật. Người vợ từ từ đi sâu vào ký ức của chính mình, nhưng bên cạnh đó người chồng luôn ở bên an ủi, yêu thương… Một tình yêu tuyệt đẹp của cuộc đời. Truyện ngắn này đã được đạo diễn Andrew Pollins dựng thành phim vào năm 2013.
Trần Minh Nguyệt giới thiệu và dịch
  

Nhân vật trong phim “The Backward Fall”



Trở về ký ức

(Nguyên Tác: The Backward Fall)    


Năm bà 62 tuổi

“Ba!” - Bà ta nói: “Tôi nghĩ hoài mà không thể nào nhớ nổi một số từ trong bài hát mà tôi thích nhất” Bà đang ngồi khép nép trên trường kỉ, với một cái đàn guitar cũ ở trên đùi.

Người chồng 47 năm qua của bà từ nhà bếp đi vào phòng khách và hỏi: “Gì vậy mẹ?” Đã nhiều năm trôi qua, kể từ lúc họ có cậu con trai thứ ba, ông gọi theo con, gọi bà bằng mẹ và bà cũng vậy, gọi ông bằng ba.

- Tôi không thể nào nhớ được đoạn hai của bài hát bắt đầu như thế nào?

- Vậy à! Nhưng mà mẹ đang hát bài gì chứ?

- Ba không quan tâm đến tôi rồi. Tôi đã hát bài hát này hơn 20 phút rồi mà.

George, chồng bà nhìn lên trần nhà: “Được rồi! Chúng ta cùng nghĩ nhé”. Ông đưa tay xoa vào râu cằm đã điểm bạc và nói: “Nhặt những bông hoa trong mưa" phải không bà?"  

Bà mỉm cười, dạo một khúc đàn và hỏi:

- Ông đoán phải không?

- Tôi không đoán mà tin như vậy. Đoạn hai là khi trời bắt đầu mưa, một thứ gì đó rơi trên cánh hoa.

- À ra vậy! Bà gật đầu xác nhận. Làm sao mà tôi quên mất như vậy chứ?

Bà lại chơi đàn. Những âm thanh đơn điệu từ chiếc đàn guitar bằng gỗ cũ kĩ. Và hát lại bài hát mà bà đã viết khi bà còn rất trẻ. Đó là câu chuyện của hai người yêu nhau, cùng nhau đi dạo trên đồng cỏ với đầy những khóm hoa dại đủ sắc màu. Cơn mưa mùa hạ đổ xuống bất chợt, thay vì chạy vô lều, họ lại cùng nhau đi dưới mưa nhặt những bông hoa dại. Và họ nhận ra rằng họ yêu nhau biết bao.

Năm bà 64 tuổi:

- Ba! Ông vào đây một lúc được không?

- Gì vậy mẹ? Mẹ muốn tôi làm gì?

Ông liếc nhìn lên gương mặt vợ một thoáng, và quay nhìn xuống ghế của mình - buồn bã. Ông ghét cái nhìn đó, mặc dù ông nhìn thấy nó nhiều lần như vậy đã trở nên quen thuộc. Nó là một cái nhìn của sự nhầm lẫn, một trong những nỗi lo sợ hoang mang.

- Tôi quên là tôi muốn làm gì rồi. Bà lắc đầu quay lại chỗ ngồi.

- Không sao cả, rồi bà sẽ nhớ lại thôi mà.

Bà lặng im, nhìn đăm đăm phía trước mặt, trong ti vi những hình ảnh động đậy nhưng bà không nghĩ được gì hết. Sau một vài giây, bà quay đầu lại phía chồng.

- Ba sẽ làm gì khi tôi quên hết mọi thứ?

- Bác sĩ nói không thể tồi tệ hơn mà.

- Nhưng nếu không phải vậy? Nếu một ngày tôi tỉnh dậy mà quên hết mọi thứ thì sao hả ông?

Ông tiến lại bàn và vỗ nhẹ lên tay vợ an ủi: “Tôi sẽ luôn ở bên cạnh nhắc bà nhớ mọi thứ mà”.

Bà ta mỉm cười và cái nhìn hoang dại cũng biến mất. Bên trên truyền hình là một chiếc áo choàng đầy hình ảnh. Toàn bộ hình ảnh của gia đình bà từ ông bà đến cháu chắt được gắn hết lên chiếc áo choàng đó. Bà không nhìn vào ti vi mà nhìn chằm chằm vào những bức hình mặc dù chúng quá xa với tầm mắt của bà. Sau một vài phút, bà nói: “Chân tôi lạnh quá. Ông lấy giúp tôi tấm chăn ra khỏi tủ quần áo?”

Minh họa: Tô Trần Bích Thúy


Năm bà 65 tuổi, nhưng bà ta nghĩ mình chỉ mới 48.

- Ông đã đổ đầy bình xăng chưa? Đi trên đường tôi không muốn dừng lại đổ xăng đâu.

Ông nhìn bà một lúc, đưa tay vén tóc mình và tiếp tục xem ti vi.

- Ông không trả lời tôi sao?

- Tôi không hiểu mẹ đang nói gì?

- Thì cái thùng xăng xe đó, ông đã đổ đầy chưa?

Ông thở dài, tắt tiếng nói chương trình mà ông đang xem về những người cổ đại ở Peru. Ông luôn muốn xem những tàn tích Inca Machu Picchu. Đã vài năm rồi, ông không đi đâu cả.

- Tại sao phải đổ xăng khi mà tôi với bà không bao giờ đi đâu ngoại trừ đi đến quầy bán thực phẩm một tuần một lần?

Bà cười và lắc đầu.

- Ông lẫn mất rồi, ông không nhớ ngày mai chúng ta rời khỏi The Grand Canyon sao?

- The Grand Canyon? Mẹ à! Chúng ta đã đi đến đó trên 15 năm rồi mà. Bà không nhớ sao?

Bà chỉ tay vào ông ngăn ông không được nói nữa. Mắt bà nhìn xa xôi, vô hồn, và ngón tay từ từ hạ xuống để dưới môi khẽ nói: “Nhưng tôi…”.

Ông nhìn một lúc vào gương mặt không biểu lộ một cảm xúc nào của vợ - chứng tỏ là bà đang suy nghĩ. Ông nghĩ về Grand Canyon, nơi mà ông bà đã thăm sau khi ông về hưu non vì sức khỏe kém. Ngay ngày đầu tiên không làm việc, ông đã rút hết các khoản tiền, mua một chiếc ô tô du lịch, họ lái xe đến tất cả các miền quê, và điểm du lịch đầu tiên mà họ đến đó là hẻm núi Grand Canyon. Họ gọi đó là chuyến hành trình lớn. Sau ba năm rong chơi, từ đại dương đến nhiều nơi khác và trở lại đó một lần nữa. Ông bà cảm thấy rất vui vẻ và yêu đời trong thời gian đó.

Ông bật âm thanh chương trình mà ông yêu thích mỗi ngày. Ông cố gắng điều hòa hơi thở của mình theo nhịp đập của trái tim.

- Tôi nghe họ có những con la mà ông có thể cưỡi chúng đi vào trong hẻm núi. Ông có tin đó là sự thật không vậy?

Tay của bà để bất động trên bàn, ông nắm chặt lấy và trong tâm trí của ông, ông như nhìn thấy chính mình đang lắc lư trên mình con la trên lối mòn đầy những đá lởm chởm. Mái tóc hoa tiêu đỏ quạch và cháy nắng bởi cái nắng như thiêu như đốt của vùng sa mạc.

- Tôi chắc chắn điều đó mà. Ông đáp lời bà.

Năm bà 67 tuổi nhưng cứ nghĩ mình mới 31 tuổi.

Một bàn tay đánh thức ông dậy, ông chống người lên và nhìn vào đồng hồ. Gần 4 giờ sáng.

- Gì vậy mẹ? Có chuyện gì không ổn sao?

- Tôi cần nói với ông một vài điều.

Ông ngồi hẳn dậy và bật đèn.

- Ông Wendell Thurber hôn vào môi tôi hôm nay.

- Wendell Thurber sao?

Chúng tôi đã cùng nhau ăn trưa chỉ một thời gian ngắn gần đây thôi, và hôm nay ông ta đã hôn tôi. Bà bẽn lẽn nhìn xuống chăn. Ông ta đã làm điều đó bất ngờ đến nỗi tôi chưa kịp nhận biết điều gì đang xảy ra.

George nhớ chuyện này đã xảy ra cách đây nhiều năm trước, khi bà còn làm việc ở nhà máy để kiếm thêm tiền mua nhà, vì vậy ông chỉ im lặng nhìn bà.

- George này! Tôi nói thật đó.

- Nhưng chuyện này đã xảy ra quá lâu rồi mà. Bà không còn tin tôi nữa sao?

- Tôi tin ông. Tôi tin là ông không hành động như vậy.

- Vào lúc đó, ông cũng có một chút hờn ghen, nhưng chỉ có vậy thôi.

Bà lại tiếp tục nói: “Wendell Thurber ôm ghì lấy tôi, hôn tôi.” - Bà nắm chặt mền nói khẽ: “Tôi kể với ông điều này bởi vì tôi yêu ông, và chỉ yêu mỗi ông thôi mặc dù có rất nhiều người yêu tôi…”.

Bà nghĩ rằng ông sẽ nổi giận và gọi bà là người đàn bà trụy lạc, hoặc thậm chí ông rời khỏi bà. Bà cứ suy nghĩ về phản ứng của ông sẽ như thế nào khi mà bà được một người đàn ông khác hôn? Nhưng thay vì giận dữ, ông cầm lấy tay bà siết chặt và đối xử với bà dịu dàng hơn trước.

Và sau đó điều diệu kỳ đã xảy ra, ông càng dịu dàng, càng làm bà hạnh phúc bao nhiêu, bà càng yêu ông bấy nhiêu. Chính vì chuyện này mà họ nhận ra rằng họ là hai nửa hoàn hảo nhất dành cho nhau trong đời. Ông mỉm cười, kéo bà vào lòng và thì thầm: “Tôi hứa, tôi sẽ thay đổi”.

- Ông đang nói gì vậy?

Ông nhìn xuống và thấy bà dán mắt vào đồng hồ.

- Bốn giờ sáng rồi. Ông dậy đi, tôi không thể ngủ được.

- Bà tắt đèn và cố gắng ngủ đi.

Bà miễn cưỡng nằm xuống quay mặt vào vách.

Ông nhìn bà một lúc, sau đó tắt đèn, căn phòng lại chìm trong bóng tối.

Năm bà 68 tuổi nhưng cứ nghĩ mình mới 23.

Tôi biết ông lấy trộm chiếc nhẫn của tôi, ông giấu nó ở đâu? Ánh mắt bà nảy lửa.

- Tôi cũng không biết nó ở đâu mẹ à! Ông đang đứng trong nhà bếp, mảnh kính vỡ từ bình cà phê xung quanh chân trần của mình.

- Ông là một kẻ nói dối.

- Chắc là bà bỏ quên nó ở đâu rồi. Bà bình tĩnh đi, chúng ta sẽ đi tìm nó mà.

Bà gào lên, ông không nghĩ những âm thanh xa lạ và khủng khiếp đó là của bà. Bà cầm lên một bát trái cây. Đưa tay lên che mặt, ông ta van xin:

- Xin mẹ đừng ném bất cứ thứ gì vào tôi nữa.

- Đừng bao giờ gọi tôi như vậy, tôi không phải là mẹ ông, ông là một người vừa già vừa xấu.

- Bà không còn nhận ra cả tôi nữa sao? Tôi là George của bà đây mà.

Bà ném cái bát lên bàn đủ mạnh để làm nứt nó.

- Ông không phải là George. Ông là một ông già xấu xí, ông đánh lừa tôi. Ông đã lấy trộm tất cả tiền của tôi và bây giờ ông lấy luôn nhẫn cưới của tôi nữa.

- Điều đó không đúng.

Bà im lặng và hơi thở mệt nhọc.

- Tôi đã trao cho bà chiếc nhẫn đó, tôi sẽ không bao giờ lấy lại nó đâu.

Hơi thở bà nhanh hơn, thở hổn hển. Trong tim của bà, chiếc nhẫn cưới khắc sâu hơn bất cứ điều gì khác.

Đột nhiên, bà quay lại và chạy ra khỏi nhà bếp. Ông nghe tiếng đóng sầm ở cửa trước. Đột nhiên ông có ý nghĩ bà sẽ lang thang trên đường phố, với cái đầu không còn nhớ gì nữa cả. Ông bật dậy chạy băng qua những mảnh chai vỡ theo sau bà. Ông đã không chạy trong nhiều năm rồi. Trái tim ông cảm thấy lớn hơn, và cồng kềnh trong lồng ngực. Ông buông bà xuống một vũng bùn trên đường vì ông bị viêm khớp nặng. Ông chỉ nắm lấy vạt áo của bà thôi. Bà vả vào mặt, đấm vào ngực ông. Ông chỉ còn đủ sức giữ chặt bà, để mặc bà vũng vẫy trong bùn lạnh. Chỉ một lúc sau, bà ngừng vùng vẫy, chỉ còn lắc lư oằn người một chút. Ông tìm cách dỗ ngọt bà đứng lên và quay trở lại nhà.

Khi bật xong hệ thống nước ấm, ông đứng dưới vòi nước cạnh bà, và dưới vòi nước phun, ông tắm gội cho bà. Bùn đất quện chặt vào mái tóc trắng và làn da trắng của bà, hòa với máu từ bàn chân dẫm lên những mảnh chai bị vỡ.

Bà nghĩ mình mới 16 tuổi.

Một ông già đang nhìn cô, nhưng cô lờ đi. Cô có nhiều điều quan trọng hơn để nghĩ tới, hơn là lo lắng, quan tâm đến một ông già.

George hôm nay sẽ đến, cô biết anh đến để tán tỉnh cô, anh đã từng thích chị gái của cô, nhưng mối tình này không đi đến đâu cả. Chị gái của cô dù xinh, nhưng George không thể không chú ý đến cô gái trẻ hơn, với mái tóc dài đen, óng ả mượt mà như cô được.

Cô nhìn ra con đường trước ngõ, một lối mòn nhão nhoẹt bùn đất, từ cổng ngõ chạy xuống đồi, sau đó qua một khúc cua và mất hút sau rừng thông. Ở phía bên kia của những cây thông là cây cầu gỗ bắc ngang sông Sandy và đường ray xe lửa.

Cô quay đầu lại và thấy một ông già đang ngồi trên lối đi với tay đan chéo trên vạt áo.

- Ông muốn gì? Cô hỏi.

Giơ tay lên một cách bất lực - ông đáp:

- Không có gì cả mẹ à. Tôi chỉ đang xem ti vi thôi mà.

Cô không hiểu ông già muốn nói gì. Cô quay trở lại con đường. Anh ấy đang ở đó, anh ấy đã qua khỏi rừng thông, mặc quần Jean và áo sơ mi trắng trông rất khỏe mạnh, cường tráng. Anh đi với một dáng vẻ thư thái, anh đang vòng qua khúc cua, và sau đó vượt qua một ngọn đồi dài. Anh nhìn lên và cô vẫy tay chào. Bây giờ cô thấy trên tay anh là một bó hoa dại, cô rất thích những bông hoa này, và lời bài hát hình thành trong đầu của cô. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là người đàn ông mà cô sẽ yêu suốt cả cuộc đời.

Bà đang chào ai vậy mẹ?

- Chồng tôi.

- Nhưng tôi ở đây mà, sao bà chào cái bức tường?

Ông già tội nghiệp nhưng cũng tử tế. Cô quay lại và chào ông. Đáp lại bà, ông cũng đưa tay lên và nói: “Chào em yêu!”.

Bà trở lại một đứa trẻ sơ sinh…

Những khuôn mặt chập chờn bay lượn quanh nó. Nó không thể đi lại được, nhưng có thể thấy chúng. Những gương mặt không tên tuổi. Nó hầu như không còn ký ức nữa vì nó chỉ là một đứa con nít. Đôi khi cũng có những gương mặt mà ký ức mỏng manh của nó không muốn nhìn, nhưng cũng không làm nó giận. Những gương mặt mang đến cho nó niềm vui mặc dù chúng không tuổi, không tên. Nó biết rằng những người này yêu nó, và nó cũng yêu họ.

Nó thở chậm rãi - vào, ra.

Có những lúc, những gương mặt che khuất tầm nhìn của nó, những từ vô nghĩa từ những bờ môi, những giọt nước mắt lăn xuống từ những đôi mắt buồn. Nhìn nét biểu hiện trên mỗi gương mặt làm nó hạnh phúc. Cuối cùng là một gương mặt rất quen thuộc, gương mặt khắc khổ. Đôi môi quen thuộc hôn lên trán nó, nó nhìn gương mặt này và nhận ra rất gần gũi, thân thương. Gương mặt làm nó cảm thấy an lòng, và ký ức một thời quay trở lại với nó.

Bà thấy mình còn ở trong bào thai.

Nó ở trong bào thai - quanh nó là nước ấm, trong nước, không cần phải thở. Vậy là nó không còn thở nữa. Đôi mắt nó từ từ khép lại.

Bà thấy George ở phía trước, nhưng ông ở rất xa. Ông đang gập người xuống. Bà biết có khi họ không thể cùng nhau được nữa, nhưng vậy cũng tốt. Đầu của ông uốn cong xuống và ông đã bắt đầu leo lên ngọn đồi dài…  

(TCSH386/04-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.

  • AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.

  • Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…

  • Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.

  • HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

  • SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.

  • KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết  truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.

  • FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.

  • MIKHAIN SÔLÔKHỐP                Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.

  • KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.

  • ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

  • GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.

  • GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.

  • JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.

  • SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.

  • DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.