Trò chuyện với Thạch Sanh

15:37 19/03/2020

HOÀNG THÁI SƠN

Một buổi trưa hè oi ả, tôi đi đến đầu làng Cao Bình, nhác thấy bóng một cây đa tán lá sum suê, mát rượi, bèn chạy quàng vào để tránh nắng.

Ảnh: internet

Tưởng dưới gốc đa không có ai, hóa ra cũng có một người cũng đang ngồi nghỉ. Tôi bị lóa mắt vì nắng, vì mệt, nhưng chỉ thoáng sau đã nhận rõ hình dáng người bạn đường ấy. Đó là một thanh niên khỏe mạnh, nước da đồng hun, bắp thịt cuồn cuộn, đầu vấn khăn nâu, trên người cũng chỉ đóng độc có một chiếc khố. Anh ta ngồi nhặt và xếp lại những chiếc lá vàng rơi. Thực ra đó không phải là những chiếc lá bình thường. Đó là cuốn sách của cổ nhân để lại cho đời sau nói về cách xử thế, về phép đánh giặc, về đức khoan dung... Người thanh niên ngước nhìn tôi, khuôn mặt phúc hậu đầy vẻ tư lự.

- Thạch Sanh! Sao anh lại ngồi đây? - Tôi hốt hoảng kêu lên.

- Nhà tôi tôi ở, sao ông hỏi thế? - Thạch Sanh trả lời, vẫn ngồi yên một chỗ.

Tôi lùi lại một bước rồi lấy hết can đảm hỏi tiếp:

- Sau khi Lý Thông chết, vua gả công chúa cho Thạch Sanh, rồi Thạch Sanh dẹp tan giặc ngoại xâm và được vua truyền ngôi, an hưởng thái bình cùng trăm họ kia mà? Cớ gì Thạch Sanh lại bỏ ngai vàng mà về lại dưới gốc đa này?

Thạch Sanh mỉm một nụ cười chua chát:

- Tôi bị mất ngôi, vì thua quân chư hầu mười tám nước!

- Lại vẫn lũ giặc ấy? - Tôi hỏi tiếp - Thế cây đàn hòa bình của Thạch Sanh đâu? Sao không đem ra gẩy cho tan giặc như lần trước?

Thạch Sanh lắc đầu:

- Không phải lúc nào tiếng đàn hòa bình cũng có sức mạnh phá tan quân xâm lược được!

- Thế cái búa đã chém trăn tinh đâu?

- Tôi ném mất trước cửa miếu Thần rồi!

- Thế cung tên bắn ác điểu đâu?

- Tôi cũng vứt luôn sau khi bắn đại bàng gãy cánh!

Nghe thế, tôi ngậm ngùi nói:

- Cung, búa mất cả, tiếng đàn nhân nghĩa trở nên vô dụng hèn chi anh phải về lại túp lều dưới gốc đa này!


Tôi nhìn quanh: Thạch Sanh chỉ còn một cây rựa cùn và ngày ngày người anh hùng của một thời ấy lại lần mò vào rừng kiếm củi bán lấy tiền đong gạo. Mười ba tuổi, Thạch Sanh đang làm tiều phu, được Tiên dạy cho võ nghệ và mọi phép thần thông để dẹp tà, cứu nguy; liệu nay Tiên còn giúp gì cho nữa không đây? Bao nhiêu việc Thạch Sanh đã làm đều là việc nghĩa. Thạch Sanh đã cứu đời bằng cái Thiện rồi cuối cùng bị trả giá bằng chính cái Thiện ấy! Khốn nạn!... Thì ra ở hiền chưa chắc đã gặp lành. Hiền với Người, chứ hiền với thú dữ rõ là cái hiền ngốc.

- Vì sao anh tha bổng mẹ con Lý Thông? - Tôi nuôi điều băn khoăn bao năm, nay mới có dịp đem hỏi Thạch Sanh.

- Nhưng cuối cùng sấm sét cũng có để nó yên đâu!

- Đó là việc của Trời, tôi muốn nói việc của Người kia. Anh có thấy đó là sai lầm lớn không? Giá tôi mà là anh, thì tôi sẽ băm vằm nó ra trăm mảnh. Chém trăn tinh, giết đại bàng, nhưng anh lại tha mạng cho con quái vật nham hiểm nhất thế gian này... Những ai không biết căm thù thì lòng thương yêu cũng chỉ là cơn gió thoảng. Sao anh không hành động như cô Tấm đã bắt mụ dì ghẻ phải lăn đùng ra chết vì ăn nhằm thịt con mình?

- Rùng rợn quá! - Thạch Sanh kêu lên - Tôi không nỡ...

Tôi phá ra cười:

- Hèn gì anh phải về lại với gốc đa, cái khố và gánh củi kiếm ăn độ nhật. Tôi nhắc lại là anh đã phạm phải một sai lầm khôn chuộc, tha mạng cho kẻ thù của mình. Lý Thông cướp công anh, đày đọa anh, tìm cách giết anh lần này, lần khác... Nó sống bằng máu của anh. Vì sao anh đại lượng với nó? Anh đừng ân hận gì nữa nhé. Cái gốc đa này với anh là sự hào phóng quá mức của trời đất với con người như anh rồi!

Thạch Sanh chớp chớp mắt rồi lẩm nhẩm gật đầu. Tôi nói tiếp:

- Bây giờ tôi nói để anh biết là Lý Thông đang còn sống đấy.

Nghe thế, Thạch Sanh bèn vớ ngay cây rựa cùn rồi đứng phắt dậy, mặt mày nhớn nháo:

- Thật ư? Lẽ nào Lý Thông còn sống? Không, tôi không tin. Ông đừng dọa tôi. Lý Thông chết rồi!

Tôi vỗ vào lưng Thạch Sanh:

- Đúng là Lý Thông chết thật rồi, nhưng còn con cháu của nó. - Tôi kéo Thạch Sanh ngồi xuống bên gốc đa - Lý Thông không được công chúa đem lòng yêu, hắn tức tối lắm, bèn chim chuột với lũ gái hầu, vung vãi ái tình khắp chốn. Anh cảnh giác, chứ có ngày nó sẽ làm hại anh cho mà xem.

- Nhưng tôi có làm gì nó, kể cả Lý Thông cũng thế.

- Anh lại vẫn là một anh ngốc, Thạch Sanh ạ. Lòng tốt có khi làm hại chính người có lòng tốt. Giá anh tàn bạo với nó, hẳn nó sẽ sợ anh hơn hùm sói. Cái Thiện làm cho con người mến mộ, nhưng cầm thú thì chỉ sợ lưỡi búa mà thôi.

- Anh bảo tôi làm gì bây giờ? Làm gì? - Thạch Sanh hỏi tôi, toàn thân run lên giận dữ rồi vớ cây rựa chém phập, mắc vào cây đa, tóe lửa.

Tôi nhìn Thạch Sanh: ở anh ta chưa mất hết nhuệ khí và sức lực. Chẳng hiểu anh ta sẽ làm gì nếu có kẻ ác tìm đến anh nơi gốc đa này lần nữa.

Tháng 8-1990
H.T.S.
(TCSH47/01&2-1992)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VŨ QUỲNH HƯƠNGLGT: Vũ Quỳnh Hương, tên thật là Nguyễn Vũ Quỳnh Hương, sinh năm 1957 tại Huế, hiện sống và làm việc tại San Jose, California (Hoa kỳ), đã có nhiều sáng tác thơ, văn trên các tạp chí Văn, Văn học và nhiều tuyển tập thơ văn ở hải ngoại. Tiêu biểu trong số đó là CUNG THỨC CÙNG THƠ MỘNG (thơ, in chung với Trân Sa, Lê Thị Huệ), MIỀN VĨNH PHÚC (truyện vừa)...

  • TRẦN THÙY MAIChúng tôi đến bản Tok, trời đã quá trưa. Người bản làm nương chưa về.. Dưới giàn bí, cô gái bản nằm ngủ hồn nhiên trên chiếc võng.

  • HỒNG NHU1.Ở độ cao ngọn núi trên một nghìn mét này, trong rừng sâu có lẽ chưa ai bước chân tới, dưới gốc một cây trâm già to cỡ hai người ôm tỏa bóng vòm hình thang chéo mỗi khi mặt trời chiếu thẳng góc, có một túp lều nhỏ lợp bằng tranh săng đã cũ trông như một cái nơm úp chụp xuống đất.

  • TRẦN THÙY MAIKhi mới vào tu học, tôi được giao chăm sóc vườn hoa trước chùa. Tên vườn là Vô Ưu, nghĩa là không phiền não. Vậy mà tôi đã bắt đầu ưu phiền từ đó. Tiết mạnh xuân, thầy tôi cho dựng thêm mấy nếp nhà cỏ men hồ. Đệ tử dạo này đã hơn mười người, phải có chỗ để tĩnh tâm, tụng niệm. Mỗi nếp nhà được đặt một cái tên. Nhà tôi ở ngay bên khóm hoa súng tím, gọi là Lăng Hoa Cốc.

  • DƯƠNG ĐỨC KHÁNHCho đến thời buổi này, cái chợ làng Thanh vẫn đông một khúm lèo tèo dưới tán cây sen cổ thụ vào buổi chiều xế. Vẫn làng tàng, xập xệ như cái tên gọi xưa nay: Chợ Kệ!. Cái tên chẳng ăn nhập gì đến tên làng, tên đất nhưng nó gắn liền với bản chất xuề xòa, nhân hậu của những lớp người quê bao đời nghèo khó.

  • LINH CHI         Quê Hoàng, một làng quê chiêm trũng miền Trung, đẹp và yên bình. Hoàng rất yêu quê nhà không chỉ bởi vì đó là nơi chôn nhau cắt rốn, mà bởi đó còn là nơi chắp cánh cho những ước mơ hoang tưởng non nớt thuở xa xôi của Hoàng.

  • NGUYÊN QUÂNNhững buổi chiều nắng ráo, gã thường ra ngồi ở đây, dọc theo hai triền sông, nở đầy những bông hoa dại - loài hoa vươn dài, xòe những chiếc lông màu tím như cái đuôi chồn. Trong bóng chiều dần dần ngả màu tối, gã vẫn ngồi ngắt từng cánh... từng cánh hoa ném xuống dòng sông.

  • VĂN ANMặt trời đã khuất sau rặng núi xa xa, bầu trời chỉ còn sót lại những vệt sáng yếu ớt như những chiếc nan quạt hắt lên từ phía chân trời.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ anh hay, rất nổi tiếng, nhiều người ái mộ.Năm 1975, anh cùng đoàn quân chiến thắng tiến vào giải phóng Sài Gòn, trụ lại thành phố làm đại diện một tờ báo, chốt trực cơ quan. Ở rừng lâu, nằm lán, ngủ võng cũng quen, nay về phố thị, căn hộ hai ba phòng, tự nhiên thấy trống trải, trằn trọc. Hoà bình rồi, cần ổn định cuộc sống, việc đầu tiên là đón mẹ con nó vào.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNấn ná mãi tôi mới quyết định đi thăm Hiền. Quãng đường hơn trăm cây số, vượt qua đèo Cả không có gì đáng ngại. Chỉ hơn ba giờ đồng hồ ngồi xe đò và hơn một giờ nữa trên chếc xe ngựa của ông Sáu cụt chân là tôi đã có thể tới làng Vĩnh Hiệp Nam, về ghềnh Đá Đỏ. Nhà cô giáo Hiền ở đó.

  • LÊ MAICơn mưa chiều sầm sập kéo tới, mưa đổ bì bộp xuống mái nhà; hạt mưa nặng đến nỗi Hoàng tưởng như những tấm tôn phải oằn rướn lên chống đỡ; nước từ các máng xối tuôn ra ào ạt kéo theo hàng đụn lá khô, cỏ rác tràn đầy cống ngoài đường. Mới có năm giờ chiều mà như tám giờ tối.

  • HƯỚNG DƯƠNGTruyện ngắnMùa đông năm ấy tôi phải đi công tác tại một thành phố nhỏ ven biển. Khách sạn tôi trú chân nằm trên một ngọn đồi, nó không sang trọng, bề thế như nhiều khách sạn khác. Nhưng bù lại, nó hướng mặt về phía đại dương. Địa điểm này thật sự lý tưởng cho khách du lịch vào mùa hè, còn mùa đông thì chỉ có những người đặc biệt hay những công việc đặc biệt người ta mới tìm đến đây nghỉ lại. Một người bạn thân đã cho tôi địa chỉ của nó. Tôi khá hài lòng nếu như bạn hàng của tôi không bắt tôi chờ bão tan rồi mới đáp máy bay đến ký hợp đồng.

  • TRẦN HẠ THÁP(thân tặng Ng.X.Hoàng)

  • TRẦN HẠ THÁP    (tiếp theo)

  • VÕ THỊ ÁNH HỒNGTôi vừa chạy vừa gọi chị trong tiếng sóng rì rào và tiếng lao xao của dãy phi lao. Như không nghe thấy tiếng tôi, chị vẫn thẫn thờ nhìn về xa xăm, chờ đợi...

  • PHẠM NGỌC TÚYĐó là một cặp vợ chồng trông rất đẹp đôi và hạnh phúc. Chàng cao lớn, mặt vuông. Nàng mảnh khảnh, xinh xắn. Khi lấy nhau, họ ở nhà tập thể của cơ quan. Sau khi cơ quan dời đi chỗ khác, người được phân đất, kẻ được chia nhà, lần lượt dọn đi. Chỉ trừ chàng. Chàng vì cô mà ở lại.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGXưa có một người nông dân chất phác cần cù, nhà ở gần bìa rừng, làm lụng đầu tắt mặt tối bao năm mới dựng được ngôi nhà tranh ba gian hai chái. Trước nhà có cái sân rộng dùng để phơi lạc, loại nông sản chuyên canh của dân trong vùng. Hai vợ chồng có mỗi mụn con trai nên thường chăm bẵm, những mong sau này có được dâu hiền, phúc nhà đến độ, may chăng cháu chắt đầy nhà là mãn nguyện.

  • NGUYỄN NGỌC LỢICây mai dáng trực đặt nơi khoảng sân lát gạch đỏ của toà nhà ấy đã làm xôn xao cả phố. Gốc cây mai to gộc, u bạnh của nó bám đầy địa y mốc xanh mốc trắng.

  • TRẦN THÙY MAIThấp thoáng trong văn Trần Thùy Mai là sự phô phang hình hài của linh tự. Những linh tự tủi buồn bởi hết thảy chúng đều được hoài thai từ “độ chênh” của những mối tình khó lần ra hồi kết. Điều đó khiến mỗi truyện ngắn của Mai như là một miếng hồng trần nhỏ nhắn - chị lặng lẽ vấy vá bằng sợi tầm ma trước mỗi rạng đông...