NGUYỄN HOÀN
Nhận định về Trịnh Công Sơn, lâu nay có câu so sánh gần như mặc định: “Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam”.
Ảnh: internet
Câu so sánh này thường được cho là của Joan Baez, một nữ ca sĩ nhạc dân ca (folk singer) của Mỹ, người thành danh chủ yếu nhờ hát nhạc Bob Dylan - một huyền thoại âm nhạc người Mỹ, một biểu tượng văn hóa có tầm ảnh hưởng toàn cầu, người được tặng giải Nobel Văn học năm 2016. Sở dĩ nói “được cho” vì câu so sánh này cũng có thể của người khác đã nói. Cái gì gần như mặc định, thường được coi như hiển nhiên, ít có sự trao đổi, tranh biện, phản tỉnh trở lại. Nhưng không phải bao giờ cũng vậy. John C. Schafer, giáo sư dạy môn Ngôn ngữ học ứng dụng và Văn học đối chiếu tại Đại học Humboldt, California, Mỹ, đã viết cuốn sách “Trịnh Công Sơn và Bob Dylan - Như trăng và nguyệt?” được dịch và xuất bản ở Việt Nam, thông qua Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2012 (được in lại với nhan đề “Trịnh Công Sơn và Bob Dylan - Một đối chiếu về tôn giáo, chiến tranh và tình yêu”, Nxb. Đà Nẵng, 2019) đưa ra một cái nhìn mới mẻ, “phá vỡ” cách hiểu gần như mặc định nói trên, đi đến khẳng định rằng Trịnh Công Sơn không phải là Bob Dylan của Việt Nam.
![]() |
Thật ra, không phải đợi đến khi cuốn sách “Trịnh Công Sơn và Bob Dylan - Như trăng và nguyệt?” của John C. Schafer được dịch và xuất bản ở Việt Nam, độc giả ở Việt Nam mới nhận ra rằng câu so sánh “Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam” là không đúng. Bùi Bảo Trúc, tác giả bài viết “Về Trịnh Công Sơn”, trên cơ sở đánh giá sự dồi dào về lượng và phẩm của nhạc Trịnh Công Sơn đã cho rằng sự so sánh đó vừa sai lầm, vừa bất công cho Trịnh Công Sơn. Bùi Bảo Trúc phân tích: “Nguyên số lượng ca khúc mà Trịnh Công Sơn viết đã nhiều hơn số ca khúc của Bob Dylan. Mà đó mới chỉ nói về số lượng sáng tác. Như vậy sự so sánh có bất công cho Trịnh Công Sơn. Bob Dylan viết một số nhạc phản chiến - anti war songs - và phản kháng - protest songs - cùng một số đề tài khác. Trịnh Công Sơn viết nhạc phản chiến, phản kháng, nhưng chủ yếu là tình ca, những đề tài khác là quê hương, thân phận con người, trong đó, triết lý và tôn giáo là những nét nổi bật. Bài nổi tiếng nhất của Bob Dylan là ca khúc Blowin’ In The Wind, bài hát nói về chiến tranh, bom đạn, chết chóc, ước mơ hòa bình được coi như bài hát đầu môi của các phong trào phản chiến hồi thập niên 60. Nhưng Blowin’ In The Wind vẫn chưa tới được mức bi thảm như các ca khúc Chính chúng ta phải nói, Người già em bé, Nước mắt cho quê hương hay Đại bác ru đêm”(1), “Những chi tiết vừa kể cho thấy đem những tên tuổi khác để so sánh với Trịnh Công Sơn là một việc vừa sai lầm vừa bất công”(2).
Điều đáng nói, đóng góp quan trọng của John C. Schafer, với cuốn sách “Trịnh Công Sơn và Bob Dylan - Như trăng và nguyệt?” là người đầu tiên đã nghiên cứu công phu, có hệ thống, thông qua khảo sát, đối chiếu, phân tích dưới nhiều góc độ về Trịnh Công Sơn và Bob Dylan, chỉ ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai nhạc sĩ huyền thoại này, trong đó, khác nhau là chủ yếu.
![]() |
Khi cho rằng “Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam”, có lẽ Joan Baez hay ai nữa nói điều này nhằm nhấn mạnh điểm giống nhau rõ nhất giữa Trịnh Công Sơn và Bob Dylan là cả hai đều viết những bản nhạc phản chiến nổi tiếng. Ngoài điều này ra, John C. Schafer đã đưa ra một danh sách về những điểm giống nhau giữa Trịnh Công Sơn và Bob Dylan như sau:
“1. Hai người này soạn nhạc, nhưng cũng được xem như là hai nhà thơ.
2. Cả hai đều viết nên những lời ca mà người nghe rất thích và được xem như là gửi gắm những sự thật quan trọng. Tuy nhiên những lời ca này cũng rất khó giải thích.
3. Cả hai đều viết những bài tình ca rất cảm động.
4. Cả hai đều có những liên hệ tình cảm đặc biệt với các nữ ca sĩ và các nữ ca sĩ này cũng giúp họ thành công và nổi tiếng.
5. Cả hai đã nói lên được ước vọng và niềm đau của một thế hệ trẻ, những người này ngợi ca hai nghệ sĩ đã nói lên được giùm giới trẻ những gì mà họ không thể nói lên được.
6. Trịnh Công Sơn và Bob Dylan thụ hưởng một sự nghiệp lâu dài của hai nghệ sĩ vừa trình bày vừa sáng tác - hay nói cách khác, cả hai đã giữ được địa vị danh tiếng của mình mặc dầu quê hương của họ đã trải qua bao cuộc thăng trầm về chính trị và văn hóa.
7. Cả hai đã chịu ảnh hưởng và tìm nguồn cảm hứng từ hai truyền thống tôn giáo của họ, đạo Phật với Trịnh Công Sơn và Ki-tô giáo với Bob Dylan”(3).
Tuy hai nhạc sĩ có nhiều điểm tương đồng như vậy nhưng John C. Schafer khẳng định “những điểm tương đồng này rất hời hợt và giản đơn và, khi nghiên cứu kỹ, có thể nói chúng che lấp những dị biệt rất quan trọng”(4).
Vậy “những dị biệt rất quan trọng” đó là những điểm nào? John C. Schafer lần lượt phân tích, soi chiếu những điểm dị biệt này, dưới các góc độ: cách phản chiến, tình yêu, nhân cách, truyền thống tôn giáo… khác nhau của hai nhạc sĩ.
Ở điểm giống nhau dễ thấy của hai nhạc sĩ là chống chiến tranh, John C. Schafer đã chỉ ra rằng ngay cả điểm giống nhau này cũng có thể che lấp những khác biệt quan trọng. Cũng giống như Bùi Bảo Trúc trong bài viết “Về Trịnh Công Sơn” đã dẫn trên, John C. Schafer đã đi sâu phân tích về số lượng và tính chất khác nhau của nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn và Bob Dylan. Bob Dylan viết nhạc phản chiến, “dấn thân vào chính trị” (chữ dùng của John C. Schafer) trong thời gian rất ngắn, chỉ có 2 năm, từ 1962 đến 1963. “Năm 1965 khi Trịnh Công Sơn đang viết những bài phản chiến nổi tiếng nhất thì Dylan đã chuyển sang viết những bài có chủ đề cá nhân hơn là chính trị”(5). Khác với Bob Dylan chỉ viết nhạc phản chiến trong một thời gian ngắn, Trịnh Công Sơn liên tục viết nhạc phản chiến trong thời gian dài, khi bom đạn chiến tranh đang tàn phá quê hương Việt Nam. John C. Schafer đưa ra con số so sánh: Trịnh Công Sơn viết đến 69 bài nhạc phản chiến như một nhà nghiên cứu đã đếm (dẫn theo Michiko Yoshi, người viết luận án về Trịnh Công Sơn tại Đại học Paris, trong 136 bài hát Trịnh Công Sơn viết từ 1959 đến 1972 có 69 bài là phản chiến), còn Bob Dylan chỉ viết độ 6 hay 7 bài chống lại chiến tranh mà thôi và không có bài nào nói về chiến tranh Việt Nam. “Như vậy hai con số về các bài phản chiến của Dylan và của Trịnh Công Sơn rất khác nhau và tính chất của các bài này cũng rất khác nhau. Trịnh Công Sơn luôn khuyên răn nên tránh hận thù trong khi Dylan thì đầy rẫy hận thù trong các bài phản chiến và một số bài khác của mình”(6).
Đối với nhạc tình của hai nhạc sĩ này, John C. Schafer nêu rõ sự khác nhau về giọng điệu, tính chất: “Giọng điệu Trịnh Công Sơn lại có vẻ buồn và hối tiếc, trong khi Dylan lại giận dữ, hung hăng và thách thức”(7), “Nhiều bài tình ca của Bob Dylan chấm dứt trong giận hờn và cáo buộc. Tình ca của Trịnh Công Sơn, trái lại, chấm dứt trong chấp nhận và buồn”(8). Phân tích về lý do của sự khác nhau này, John C. Schafer cho rằng vì hai nhạc sĩ thuộc về hai truyền thống văn chương và ca nhạc khác nhau: “Thi sĩ và nhạc sĩ Việt Nam thường tìm cái ngọt ngào trong tình yêu dang dở”(9), “Không giống Trịnh Công Sơn, Dylan xuất hiện từ một môi trường văn chương và âm nhạc ít lãng mạn hơn (nghĩa là hiện thực hơn), ít tình cảm hơn và phản lại các lề lối cũ của xã hội và nghệ thuật”(10). Ngoài sự khác nhau do ảnh hưởng từ các truyền thống văn chương và âm nhạc, theo John C. Schafer, các tác phẩm của Trịnh Công Sơn và Bob Dylan khác nhau vì do hai người có nhân cách khác nhau, có “cái tôi” trong tác phẩm khác nhau. Không được nhầm tưởng rằng người “nói”, tức là người xưng ngôi thứ nhất trong các tác phẩm văn học nghệ thuật và người sáng tác ra các tác phẩm đó là một. “Tôi” trong các bài hát của Trịnh Công Sơn không phải là Trịnh Công Sơn. Cũng như “tôi” trong các bài hát của Bob Dylan không phải là Bob Dylan. John C. Schafer nhận thấy rằng, văn sĩ thường mang mặt nạ (persona), họ hóa thân vào nhiều nhân vật khác nhau trong các tác phẩm của mình để đạt được những mục đích nghệ thuật. Tuy nhiên, John C. Schafer phỏng đoán rằng có một sự liên lạc giữa persona của những bài hát và nhân cách của người sáng tác ra nó: “Chúng ta sẽ thấy persona trong một bài hát tiêu biểu của Trịnh Công Sơn có vẻ hiền từ hơn, ít giận dữ hơn và đầy tha thứ hơn persona trong một bài hát tiêu biểu của Bob Dylan. Có thể persona của Trịnh Công Sơn dễ mến hơn persona của Bob Dylan bởi vì Trịnh Công Sơn là một người dễ mến hơn”(11).
John C. Schafer thấy rằng hai nhạc sĩ này phản ứng rất khác nhau khi đương đầu với những bất hạnh trong đời sống cá nhân hay trước chiến tranh và bất công. “Trong khi Trịnh Công Sơn phản ứng bằng một thái độ đau buồn và thương xót thì Bob Dylan phản ứng bằng một thái độ thách thức, giận dữ và căm hờn. Hai cách phản ứng khác nhau như vậy tạo ra những bài hát với hai giọng điệu khác nhau, gửi gắm hai thông điệp khác nhau về cách sống ở đời”(12).
Đặc biệt, cuốn sách của John C. Schafer đã dành nhiều dung lượng (phần II và phần III) để phân tích về sự khác nhau của hai nhạc sĩ do chịu ảnh hưởng từ hai truyền thống tôn giáo khác nhau, với Trịnh Công Sơn là Phật giáo và với Bob Dylan là đạo Do Thái và đạo Ki-tô. John C. Schafer khẳng định “đây là điểm quan trọng nhất và có thể cũng là nguồn gốc của những điểm khác nhau kể trên”(13). Làm sáng tỏ điểm khác nhau “quan trọng nhất” này, John C. Schafer phân tích sâu về ảnh hưởng của đạo Ki-tô trong các tác phẩm của Bob Dylan và ảnh hưởng của Phật giáo trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Ảnh hưởng khác nhau nên tư tưởng nghệ thuật khác nhau, chất nhạc khác nhau. Trong nhiều tác phẩm của mình, Bob Dylan đã sử dụng ngôn ngữ Kinh thánh, mà John C. Schafer đã nêu là “ướt sũng Kinh thánh”, chẳng hạn với bài “Are You Ready?” (Đã sẵn sàng chưa?), Bob Dylan viết về “ngày phán xét cuối cùng” theo Cựu Ước: “Bạn đã sẵn sàng chưa cho ngày tận thế?”. John C. Schafer còn lý giải rằng, Bob Dylan hay thể hiện lòng giận dữ trong rất nhiều bài hát của ông là do ông chịu ảnh hưởng bởi “cơn thịnh nộ của Thượng đế”: “Kinh thánh có rất nhiều câu nói về sự giận dữ của Thượng đế… Người theo đạo Ki-tô tin rằng sự thịnh nộ của Thượng đế là “hậu quả của sự lo lắng tối cao””(14). Khác với Bob Dylan, Trịnh Công Sơn chịu ảnh hưởng của Phật giáo nên “ông phản ứng trước những bất thành không phải với giận hờn mà với tình thương”(15). Nghiên cứu về “Trịnh Công Sơn và Phật giáo”, John C. Schafer đã đề cập về ảnh hưởng của các khái niệm cốt tủy của Phật giáo như “nhẫn nhục và từ bi”, “tính không”, “pháp môn bất nhị” trong nhạc Trịnh Công Sơn. Thấu tỏ nhạc Trịnh Công Sơn thấm đượm lòng từ bi, John C. Schafer đi đến một nhận định khái quát xác đáng rằng lòng từ bi này định hình cho cái nhìn của Trịnh Công Sơn về thế giới (“Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ” - Ru em). Dưới cái nhìn “tính không” của Phật giáo, “sắc” và “không” không khác nhau, “con mắt còn lại nhìn đời là không” (Con mắt còn lại), sóng và biển không khác nhau, cho nên “biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu?” (Sóng về đâu?). “Bất nhị” tức là “không hai”, nhìn sự vật không theo lối nhị nguyên, không phân biệt làm hai: sắc/ không, sống/ chết, buồn/ vui… Sắc tức là không, không tức là sắc chính là cái nhìn “bất nhị”. John C. Schafer viết: “Bằng cách chấp nhận ý niệm Bất Nhị và Vô Ngã, ta có thể làm dịu lại biên giới giữa sống và chết... Trong nhiều bài hát của mình, Trịnh Công Sơn hình như đã cố gắng làm mờ biên giới giữa sống và chết. Một bài nổi tiếng vào loại bậc nhất của ông, “Một cõi đi về” bắt đầu với:
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”(16)
Làm rõ thêm về ý niệm “một cõi đi về”, Trịnh Công Sơn từng viết: “Đi về là một lộ trình quen thuộc của cuộc sống mà ai cũng phải trải qua”(17). Vẫn với cái nhìn “bất nhị”, Trịnh Công Sơn đã thấy: “Buồn vui kia là một” (Nguyệt ca). John C. Schafer bình luận: “Một điều khác làm cho cái buồn của Trịnh Công Sơn quyến rũ hơn là vì nó hình như luôn đi đôi với hạnh phúc”, “ghép liền cái vui và cái buồn đến độ không còn thấy sự khác nhau nữa thì rất là đặc biệt nơi Trịnh Công Sơn”(18).
Khi so sánh ảnh hưởng Phật giáo trong nhạc Trịnh và ảnh hưởng đạo Ki-tô trong nhạc Bob Dylan để chỉ ra sự khác nhau căn bản của hai nhạc sĩ này, John C. Schafer đã có một phát hiện thú vị, sâu sắc, độc đáo là nhấn mạnh sự khác nhau quan trọng của hai nhạc sĩ về tính chất, mức độ chịu ảnh hưởng, về phương thức thể hiện những tín điều đã chịu ảnh hưởng sao cho nhuần nhuyễn về mặt nghệ thuật chứ không sa vào “truyền giáo”. Về điều này, John C. Schafer đã phân tích, làm rõ hẳn sự nổi trội độc đáo của Trịnh Công Sơn: “Mặc dầu ông không muốn ai ghép cho ông danh nghĩa là phát ngôn viên của phái này phái nọ, nhưng Dylan đã từng là phát ngôn viên cho đạo Ki-tô của ông. Trịnh Công Sơn, trái lại, diễn tả nhiều ý niệm Phật giáo trong các bài hát của mình, nhưng ông không bao giờ cho mình là phát ngôn viên của đạo Phật. Đây là một điểm khác nhau quan trọng giữa hai người”(19), “Dylan đã truyền đạo không che đậy chút nào trong các bài ca của ông, một điều mà Trịnh Công Sơn không bao giờ làm”(20), “Các bài của Trịnh Công Sơn không nặng nề kinh kệ, không có bài nào công khai tôn sùng tôn giáo như các bài trong những album có tính cách truyền giáo của Dylan”(21), “Trịnh Công Sơn viết các bài hát của mình cho một quần chúng rộng lớn, nên ông không đem vào đó những ngôn từ Phật giáo khó hiểu. Các bài hát của ông vì vậy đầy ắp ý nghĩa đạo Phật, nhưng không bị đè nặng bởi những kinh kệ đạo Phật”(22). Qua sự so sánh này của John C. Schafer đã làm nổi bật lên bản lĩnh nghệ thuật cao cường của Trịnh Công Sơn trong tiếp nhận các nguồn ảnh hưởng: tư tưởng triết học, tôn giáo…, tiếp nhận có chọn lọc, sáng tạo, “thoát thai hoán cốt”, phục vụ cho mục đích cao đẹp của nghệ thuật chứ không thể hy sinh nghệ thuật cho sự “truyền giáo” nào. Qua trường hợp sáng tạo âm nhạc của Trịnh Công Sơn càng cho thấy nghệ thuật có thể chịu ảnh hưởng của các tư tưởng triết học, tôn giáo nhưng nghệ thuật là nghệ thuật, nghệ thuật không phải là triết học, tôn giáo và không làm thay nhiệm vụ của triết học, tôn giáo. Triết học, tôn giáo chỉ “làm giàu” thêm cho nghệ thuật mà trường hợp Trịnh Công Sơn là một minh chứng sinh động, nhiệm màu.
Nhận thấy sự so sánh: “Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam” là so sánh có tính chất cảm tính, bề nổi, không chính xác, là người dạy môn Văn học đối chiếu, John C. Schafer đã làm cái việc chẳng khác gì việc của người làm “văn học so sánh”, nghĩa là so sánh một cách khoa học, có căn cứ, có thực chứng, có khảo sát, thống kê… để chỉ ra sự giống nhau và khác nhau giữa Trịnh Công Sơn và Bob Dylan trong sáng tạo nghệ thuật, từ đó giúp người đọc hiểu sâu hơn về hai nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và Bob Dylan, nhằm trả lại cho Caesar cái gì của Caesar. Đã so sánh thì phải hướng đến hai mục đích là chỉ ra tính khái quát và tính đặc thù của những đối tượng được so sánh, cũng có nghĩa là chỉ ra cái chung và cái riêng, cái quốc tế và cái dân tộc(23). Sau khi đề cập về sự khác nhau của hai nhạc sĩ, sự khác nhau của hai truyền thống tôn giáo, ở phần kết cuốn sách, John C. Schafer hướng đến một tiếng nói chung, mang tính khái quát, vượt lên trên sự khác biệt của hai nhạc sĩ và hai truyền thống tôn giáo. John C. Schafer dẫn câu của Lindbeck, một nhà thần học Mỹ: “Một thế giới thu nhỏ lại buộc các tôn giáo cũng như các quốc gia phải học cách để đối thoại với nhau”(24). Dưới cái nhìn của văn hóa đối thoại, John C. Schafer khái quát, đúc kết một nét chung rằng: “Trịnh Công Sơn nhìn thế thái nhân tình theo cái nhìn của nhà Phật và Phật giáo đem lại cho ông niềm an ủi. Bob Dylan nhìn thế thái nhân tình theo cái nhìn của đạo Ki-tô và tìm được niềm an ủi trong việc thờ Chúa. Điểm chung cho hai người ở đây là tìm ra sự thanh thản cho tâm hồn và mãn nguyện với chính mình. Trên phương diện này có thể Phật giáo và Ki-tô giáo có thể hiểu được nhau và Trịnh Công Sơn cũng không quá xa lạ đối với Bob Dylan. Vì ai mà không có lúc cần được sự giúp đỡ để đối phó với sự mong manh của cuộc đời, chẳng hạn như khi phải đối diện với sự tàn phai của tuổi trẻ, hay sự qua đời của một người thân”(25).
Cuốn sách của John C. Schafer cho thấy việc nghiên cứu, tìm hiểu về Trịnh Công Sơn cũng như các hiện tượng văn hóa tiêu biểu khác cần được tiếp tục mở ra. Mở rộng trường nghiên cứu, nghiên cứu trong so sánh, đối chiếu với trong nước, kể cả nước ngoài để hiểu mình, hiểu người rõ nét hơn, để phát hiện, khẳng định sâu sắc hơn, toàn vẹn hơn về các giá trị văn hóa dân tộc, tạo tiền đề, cơ sở cho việc quảng bá văn hóa, hội nhập về văn hóa với thế giới. Chẳng hạn, nghiên cứu việc tiếp nhận nhạc Trịnh ở Nhật Bản là một đề tài thú vị. Cuốn sách này đã gửi gắm một thông điệp quý, đồng thời cũng khẳng định triển vọng của hướng nghiên cứu nói trên, khi cho rằng giá trị của Trịnh Công Sơn cần được tiếp tục nghiên cứu, công nhận: “Thiên hạ vẫn còn ngưỡng mộ hai danh tài này vì những cống hiến lớn lao cho hai nền văn hóa mà họ đại diện. Trên thế giới, Bob Dylan được biết đến nhiều hơn vì ông là công dân của nước Mỹ, một nước rộng lớn, và vì tiếng Anh, ngôn ngữ của ông, rất phổ thông trên toàn cầu. Nhưng tôi tin Trịnh Công Sơn cũng tài năng không kém và đáng lẽ phải được công nhận nhiều hơn. Tôi cũng khẳng định rằng chúng ta có thể biết nhiều hơn về hai nền văn hóa Việt và Mỹ bằng cách tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của hai người này”(26).
N.H
(TCSH386/04-2021)
------------------------
(1) Một cõi Trịnh Công Sơn, Nxb. Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2002, tr. 371, 372.
(2) Một cõi Trịnh Công Sơn, sđd, tr. 373.
(3) John C. Schafer, Trịnh Công Sơn và Bob Dylan - Như trăng và nguyệt?, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2012, tr. 51, 52.
(4) John C. Schafer, sđd, tr. 52.
(5), (6) John C. Schafer, sđd, tr. 59.
(7) John C. Schafer, sđd, tr. 89.
(8), (9) John C. Schafer, sđd, tr. 95.
(10) John C. Schafer, sđd, tr. 95, 96.
(11) John C. Schafer, sđd, tr. 102, 103.
(12) John C. Schafer, sđd, tr. 109
(13) John C. Schafer, sđd, tr. 110.
(14) John C. Schafer, sđd, tr. 131.
(15) John C. Schafer, sđd, tr. 142.
(16) John C. Schafer, sđd, tr. 170.
(17) Trịnh Công Sơn, Nghĩ về thiền, in trong tập: Trịnh Công Sơn, tôi là ai là ai…, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2011, tr. 212.
(18) John C. Schafer, sđd, tr. 157.
(19) John C. Schafer, sđd, tr. 113.
(20) John C. Schafer, sđd, tr. 123.
(21) John C. Schafer, sđd, tr. 150.
(22) John C. Schafer, sđd, tr. 151.
(23) Xem Nguyễn Văn Dân, Lý luận văn học so sánh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011, tr. 68, 69.
(24) John C. Schafer, sđd, tr. 173.
(25) John C. Schafer, sđd, tr. 190.
(26) John C. Schafer, Trịnh Công Sơn và Bob Dylan - Một đối chiếu về tôn giáo, chiến tranh và tình yêu, Nxb. Đà Nẵng, 2019, tr. 5, 6.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.