Triết luận trong thơ Văn Công Hùng

14:45 05/05/2017

TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI

Thuật ngữ triết luận gắn với tính trí tuệ hay tính triết lý trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng xuất hiện từ rất sớm.

Đến đây chúng ta có thể hiểu, tính triết luận sẽ có được khi: cảm xúc của nhà thơ thăng hoa trong lúc suy nghĩ, phân tích, giải thích, biện luận những vấn đề hiện thực cụ thể mà nhà thơ trải qua. Như vậy triết luận là một yếu tố để cấu thành nên văn bản văn học chứ không phải là toàn bộ nội dung của văn học.

“Triết” là triết lí, “luận” là bàn luận; “triết luận” có thể hiểu chung lại là triết lí và bàn luận. Thông thường nhà thơ triết lí và bàn luận về những vấn đề con người và xã hội. Chúng tôi hiểu thuật ngữ ở góc độ đơn giản này và cho rằng: Cảm hứng triết luận là hứng thú được tranh luận, biện giải khi bắt gặp những chất liệu cuộc sống, những vấn đề nhân sinh và xã hội gần gũi với những chiêm nghiệm, suy tư lâu dài của nhà thơ, được nhà thơ sáng tạo thành các tứ thơ.

Khi cảm hứng triết luận trở thành cảm hứng chủ đạo thì tác phẩm sẽ mang hơi hướng của sự phân tích, biện giải và tính triết lí sẽ xuất hiện thường xuyên ở các tác phẩm làm nên nét riêng của nhà thơ. Đến đây, nhà thơ nào có vốn sống, vốn văn hóa, vốn triết học cao và biết vận dụng những vốn đó sáng tạo thì cảm hứng triết luận sẽ định hình tư duy triết luận độc đáo làm nên phong cách riêng của nhà thơ. Những nhà thơ như vậy thường được gọi trân trọng là “nhà thơ trí tuệ” hay “nhà thơ triết lý”.

Các nhà thơ thường thiên về “duy cảm”. Văn Công Hùng không lựa chọn con đường đó, ông chọn thơ “duy lí” mang tính biện giải, đút rút, chiêm nghiệm. Vì vậy nét nổi bật làm nên phong cách thơ ông là tính triết luận. Những triết lí, luận giải trong thơ Văn Công Hùng như đã đề cập thường không cao xa, khó hiểu mà gắn bó mật thiết với đời sống, với những cái hằng thường mỗi ngày ông trải qua. Bất kì cảnh tượng, sự việc gì cũng được Văn Công Hùng soi chiếu ở một chiều kích khác - chiều kích của trí tuệ - nó đòi hỏi người nghệ sĩ ngoài vốn sống còn cần có chiều sâu của tri thức và liên tưởng.

Văn Công Hùng thường hay suy ngẫm chiêm nghiệm về con người và thời đại. Giọng thơ Văn Công Hùng đặc sắc nhờ những suy tưởng. Ông đã quan sát, nhìn nhận từ hiện thực cuộc sống để từ đó đưa ra những nhận định về con người và cuộc sống thời ấy. Trong cuộc sống quanh ta có biết bao điều xảy ra khiến chúng ta phải suy ngẫm như sự vô nhân đạo phi nghĩa của chiến tranh:

Cuộc chiến tranh đã qua lâu rồi
Gai thép nhọn vẫn đâm vào hiện tại
                   (Một nửa bông hồng)

Hay hòa bình với những bộn bề phức tạp của cuộc sống:

cục đá được tôn lên
nhênh nhang như phải đấm
bác sĩ thành đồ tể

sông Hồng bâng quơ lướt giữa mùa đông
          (Sáng mai rồi mùng một)

Chất suy tư, triết luận ở con người này đã ngấm cả vào thơ, như men rượu ngấm dần vào máu. Chúng ta đọc thơ ông - chàng thi sĩ “hát rong” để thấu hiểu với cõi lòng ông, cảm nhận được những trăn trở và khát vọng của ông về tình yêu, nghệ thuật cũng như cuộc sống. Qua đó để thấy chất phong trần ở Văn Công Hùng không chỉ thể hiện trên gương mặt đăm chiêu, thấm nỗi buồn diệu vợi mà còn thể hiện qua ngôn ngữ thơ chắt lọc từ cuộc sống, đầy dự cảm, chiêm nghiệm và triết lý. Là người từng trải Văn Công Hùng đã chứng kiến bao sự kiện, để rồi suy ngẫm về cuộc đời này:

cái miệng để nói trái tim để đau
có những chức năng hình như đang đổi
tìm một sự tử tế sao mà khó

dửng dưng mắt chớp qua ngày
                   (Tự gặm)

Ông đã đi qua tất cả, để bây giờ nhìn lại mình, chiêm nghiệm từ chính mình, thực sự ngồi ngắm khuôn mặt mình:

Trong bóng đêm tôi nhìn thấy mặt mình
lang thang và ngơ ngác

mặt của tôi được sinh ra lần nữa
lăn trong giấc mơ

          (Trong bóng đêm)

Hay:

có những lúc ta là ta xa lạ
ta như là phiên bản của ta thôi
ấy là lúc soi vào ảo ảnh

thấy ta là ai của ngày xưa…
          (Có những lúc)

Cuộc đời là thế, Văn Công Hùng đi vào cõi lặng của mình để được nhìn ngắm mình, nhìn ngắm xung quanh và bỗng hiểu rằng:

Thơ cho đời cho bạn cho tôi
có chút đắng khé lòng trôi nổi thân phận
có tí ti ngọt ngào nụ hôn tình ái

có vầng trăng bạc phếch ở trên đầu
          (Thơ trong chiếu rượu)

Không phải ai cũng cảm nhận được điều đó nhưng nó lại là căn nguyên của sự thật, làm ta bình tâm hơn trước những thách thức của cuộc đời. Nhà thơ hơn ai hết nhạy cảm với mọi biến động của cuộc sống và khái quát mạnh mẽ thành những hình tượng thơ. Ông đã nghiệm ra một điều:

Không thể hết những muộn phiền
Không thể hết những nỗi đau

Không thể sung sướng đến tận cùng
Nước mắt đến tận cùng

                   (Và gió)

Cuối cùng ông nghiệm ra, thơ vẫn là những gì lắng lại sau tất cả, dù vinh hoa phú quý hay những bức bối thường nhật của cuộc đời. Văn Công Hùng đi đến triết luận nỗi buồn rồi sẽ qua, niềm vui rồi sẽ đến:

Giọt sầu rồi sẽ vơi
Giọt vui rồi sẽ tới

Duỗi chân chờ ngày mai
Một thoáng trần thư thái

          (Bất chợt chiều)

Nhà văn Nguyễn Tuân đã định nghĩa chính xác “Thơ là mở ra một cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó còn như bị phong kín”. Thơ Văn Công Hùng là những rung động của trái tim kết lại thành vần điệu. Thơ ông rất cảm xúc nhưng ông đã nâng tầm trí tuệ cho mỗi câu thơ để một cách tạo ra chiều sâu cho tình cảm. Sự gắn bó mật thiết trí tuệ với tình cảm thông qua những suy tưởng triết lý, khái quát đã đem đến cho thơ Văn Công Hùng những khám phá mới mẻ về chân lý cuộc đời.

Ngoài sự nồng nhiệt trong tình cảm, thơ Văn Công Hùng còn luôn đằm sâu trong suy nghĩ. Văn Công Hùng chú trọng quan sát hiện thực đời sống để nắm bắt được những chi tiết rất nhỏ nhưng có sức khái quát cao:

những đồng tiền vào tay như gió vào nhà trống
cô bé non choẹt lừa lão luyện chuyên gia vèo bay 4 ngàn tỉ
rồi huề
10 cân su hào chưa gạt ngang tô phở
          (Sáng mai mùng một rồi)

Là người có tố chất thông minh, lại có vốn sống phong phú, Văn Công Hùng có khả năng nắm bắt rất đúng cái thần của sự việc. Ông có những phát hiện khái quát sâu sắc về dân tộc, thời đại, về cuộc sống về con người. Dường như những triết lí nhân sinh đã trở thành một đặc trưng trong phong cách thơ Văn Công Hùng. Từ những quan sát, nhà thơ đã tư duy để tìm ra những quy luật khách quan của cuộc sống, quy luật nội tại của tình cảm và lý giải bằng những hình tượng thơ sinh động.

Tăng cường tính triết luận vào thơ đã tạo được nét riêng biệt làm nên phong cách thơ Văn Công Hùng. Ông cảm nhận được sự ngắn ngủi của đời người trong dòng chảy không cùng của thời gian. Sự sống con người ngỡ ra là thoáng chênh vênh, mơ hồ. Cũng từ đó, nhà thơ ngộ được giới hạn của đời người. Đọc thơ ông, ta nghe trong đó thời gian lưu chuyển có cả niềm tiếc nhớ cái đã qua:

cứ tưởng chỉ còn mười ba năm tro bụi
nụ hôn xưa

mãi mãi là dĩ vãng
trong ngọt ngào chua xót của cuộc đời
                   (Dĩ vãng)

Những triết lý này có sức khái quát cao. Nó chính là sự thật ở đời mà đôi khi người thường chúng ta dễ dàng bỏ qua hoặc nhận ra nhưng không nói được thành lời và chẳng để ý mấy. Bằng trải nghiệm và suy tư, Văn Công Hùng đã diễn đạt đầy trí tuệ qua việc sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong thơ Văn Công Hùng nặng tính khái quát, triết luận được thể hiện rõ nét qua việc dùng từ, đặt câu. Cách diễn đạt theo xu hướng này khiến thơ của ông giàu chất trí tuệ. Qua đây ta cũng thấy nhà thơ có ý thức vô cùng sâu sắc về việc sử dụng ngôn từ thơ một cách cá tính để thể hiện sự bức phá và vượt thoát bản thân trong lao động nghệ thuật.

Văn Công Hùng là nhà thơ Việt Nam đương đại, ông đã từng sống và đi nhiều nơi nên không thể phủ nhận rằng vốn sống của ông khá phong phú. Điều đó cũng dẫn đến khả năng sử dụng và phát huy ngôn ngữ một cách nhuần nhị và linh hoạt trong thơ ông. Thơ Văn Công Hùng rất mới. Song ông là một nhà thơ cách tân thận trọng, khôn ngoan, biết sử dụng khéo léo những thành tựu thơ phương Tây lại không bao giờ đoạn tuyệt với thơ truyền thống Việt Nam. Văn Công Hùng là nhà thơ luôn có ý thức xây dựng một cách đúng đắn mối quan hệ giữa thơ với đời, giữa người làm thơ và người đọc thơ. Cho nên có thể nói ngôn ngữ trong thơ Văn Công Hùng luôn là ngôn ngữ “hòa giải” các mối quan hệ đó.

Thơ giống như gió, con người ta không thể dùng mắt thường mà nhìn thấy, không thể dùng tay mà nắm bắt mà thơ chỉ có thể cảm nhận bằng những giác quan của trái tim, bằng sự tinh tế của tâm hồn đang tràn ngập ý thơ. Không ai biết thơ từ đâu tới, thơ đi về đâu, nhưng thơ mang trong mình những năng lực siêu phàm huyền bí. Có lẽ thơ bắt đầu từ những trái tim đang đập nhịp yêu thương và điểm đến của nó là tìm đến với sự đồng cảm của con người trong thế giới muôn hình vạn sắc. Trong thế giới ấy thơ có một sức mạnh phi thường, thơ giúp người gần người hơn, thơ làm đẹp cho đời, thơ làm cho cuộc sống này luôn hân hoan trong những giai điệu khi bổng khi trầm của đời. Với Văn Công Hùng, thơ có lẽ được xem là bức chân dung tự họa đầy đủ và sinh động nhất về một người thơ “hát rong”, phiêu lưu cùng trời đất gió trăng, nhưng chất đầy trong tim những mối suy tư, trăn trở, chiêm nghiệm về đời tư thế sự.

Trước sự chuyển vần, trước sự tuần hoàn của dòng đời, nhà thơ là một vạt hoa lặng lẽ tỏa hương. Theo sát hành trình thơ Văn Công Hùng, chúng ta thấy trong đó sự thao thức, suy ngẫm, chiêm nghiệm mang tính triết luận. Thơ ông viết cho mình, nhủ lòng mình hơn là khuyên răn người khác. Đây chính là một trong những phẩm chất đích thực của thi ca và cũng là cốt cách sống của nhà thơ Văn Công Hùng, giúp nhà thơ tỏa sáng một cách kín đáo bên cạnh các cây bút tài năng của nền thơ hiện đại Việt Nam.

T.T.T.T
(SHSDB24/03-2017)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.