Triết học trong thời kỳ đại dịch

17:49 09/11/2021

ANDREW HAAS  

Khi virus corona mới xuất hiện, tôi bắt đầu dạy tác phẩm Phaedo của Plato [đối thoại nổi tiếng của ông bàn về sự bất tử của linh hồn - ND].

Ảnh: thephilosophicalsalon.com

Đối thoại - kể lại ngày cuối cùng trong cuộc đời của Socrates, bao gồm cả cái chết của ông ta do uống thuốc độc - cho phép chúng ta đặt ra hai câu hỏi. Đầu tiên, Socrates có ý gì khi nói rằng, đối với chúng ta, triết học là sự chuẩn bị cho cái chết, hay thực hành cho cái chết? Thứ hai, trong thời kỳ đại dịch, khi cái chết vây quanh, chúng ta triết lý như thế nào trong mối quan hệ với người khác?

Câu hỏi đầu tiên cho phép chúng ta thấy rằng triết học không chỉ là một môn học hàn lâm như bất kỳ môn học nào khác. Dẫu có nhiều điều cần biết và nhiều tri thức cần đạt được (về ý niệm, linh hồn, nhận thức luận), nhưng nhiệm vụ của nó không chỉ đơn giản là biết. Đúng hơn, đó là một kiểu sống, một cách tồn tại. Và giống như câu cách ngôn “hãy biết rằng ngươi sẽ phải chết” (memento mori), điều mà đại dịch này tạo ra đó là việc sống chung với chết, hay sống trong khi cái chết đang rình rập, sống như đang-sống-và-đang-chết, ngay bây giờ, trong hiện tại, cùng một lúc. Vì cái chết không chỉ đơn giản là một cái gì đó sẽ đến, giống như một số loại sự kiện trong tương lai; nó ở đây và ngay bây giờ, chúng ta đang làm gì và đã làm gì; nó là những gì liên tục xảy ra.

Nếu triết học chuẩn bị cho chúng ta trước cái chết, thì đó không phải là sự chuẩn bị cho điều sẽ xảy ra, cho sự ra đi của chúng ta, hoặc cho sự ra đi của bạn bè và những người thân yêu, hay những người xa lạ và bị ghẻ lạnh. Ngược lại, triết học chuẩn bị cho chúng ta cái chết bằng cách chỉ cho chúng ta cách sống, bằng cách cho phép chúng ta thực hành việc sống và việc chết. Bởi vì triết học nghiên cứu cách suy tư và cách nói, hành động và tồn tại trong khi đang-sống-và-đang-chết. Thật vậy, đây là đời sống triết học: quan tâm đến việc suy tư và nói, hành động và tồn tại, sao cho chúng ta nhận thức được về cả việc đang sống lẫn đang chết diễn ra như thế nào. Không phải chỉ là chuyện sống tốt hay ốm đau vì chúng ta có thể chết bất cứ lúc nào, hoặc vì chúng ta sẽ chết trong tương lai, hoặc vì chắc chắn rằng cuối cùng tất cả mọi người đều chết, và cái chết vẫn còn bao trùm cả phía chân trời. Đúng hơn, như một cách sống ngay bây giờ, trong hiện tại, như một cách chết, như một kiểu chết, triết học là sự chuẩn bị để tự hoàn thiện mình, một thực hành tự hiện thực hóa nó ở trong hành động: nó tự mình thực hiện ở trong hành động.

Và công việc của triết học, trước hết và quan trọng nhất, là suy tư và nói về triết học, tức là đưa ra “một chút suy tư theo kiểu Socrates, và còn nhiều hơn thế về sự thật,” trước khi triết học có thể bắt đầu suy tư và nói về bất cứ điều gì khác (như trong nghệ thuật và khoa học). Công việc của triết học là hành động và là triết lý trước khi hành động và tồn tại theo một cách nào đó khác (cho dù là trú ẩn tại chỗ hay tìm kiếm vắc xin, chăm sóc người bệnh hay hoàn toàn không quan tâm gì ráo, thích hành động như những con lừa, con kiến, con ong, con sói hay diều hâu). Đây là cách Socrates trải qua ngày cuối cùng của đời mình: sống khi cái chết đang cận kề, chết khi đang sống, và qua đó, để thực hành triết học. Đây là lý do tại sao ông ta khẳng định rằng điều đó cũng giống như tất cả những thứ còn đọng lại. Vì ông ta đã thực hành cả đời mình để triết lý, đấy là lý do tại sao, khi được hỏi ông ta muốn gì vào ngày cuối cùng của mình, cho điều ước cuối cùng của mình, Socrates nói: “Không có gì mới”, chỉ những điều đã cũ, những gì ông ta đã và đang nghĩ và nói, đang làm và đang tồn tại, như ông ta đang sống và cũng đang chết. Và đây là lý do tại sao, nếu chúng ta muốn “một cái gì đó mới”, bây giờ trong thời kỳ của virus corona mới, đang bị phong tỏa hoặc gỡ bỏ phong tỏa, đó là bởi vì chúng ta đã không thực hành việc chuẩn bị cái chết, bởi vì, cho đến khi chúng ta lo lắng hoặc không quan tâm, chúng ta không sống một đời sống triết học.

Mạch suy tư này cho phép chúng ta đặt ra câu hỏi thứ hai về việc làm thế nào mà những người trong chúng ta đang sống, đang sinh tồn trong khi vẫn đang chết trong trận đại dịch này, có thể thực hành triết học trong mối quan hệ với người khác. Và đây, những lời cuối cùng của Socrates là một manh mối: ông nhắc bạn bè của mình rằng họ mắc nợ Asclepius, vị thần chữa bệnh, vì vậy họ không nên bỏ bê món nợ mà hãy lo trả nó. Bản thân Plato cũng bị ốm và không thể ở bên Socrates vào ngày cuối cùng của ông ấy. Nhưng những lời của Socrates thì cho thấy rằng ông quan tâm đến cuộc sống của Plato cả ngay lúc ông qua đời. Thậm chí còn nhiều hơn: những lời của Plato - vì ông là tác giả của cuộc đối thoại - nói về điều mà Socrates không thể biết được, tức điều mà Plato đã khôi phục lại, và vì vậy món nợ đã đến hạn trả. Nói cách khác, người đã vắng mặt trong suốt bản văn, Plato ốm yếu, lại xuất hiện trong lời cầu xin của Socrates đang hấp hối. Tác giả khẳng định mình như đã có mặt từ trước đến nay, như việc đưa lời nói vào miệng các nhân vật của mình. Như vậy, phần cuối của cuộc đối thoại cho thấy bằng cách nào đó những người vắng mặt cũng hiện diện, hoặc hiện diện như là vắng mặt, và những người ở đây không phải là tất cả những gì ở đó.

Cũng như cái chết không chỉ đơn giản là vắng mặt khỏi cuộc sống - ít nhất là đối với những người làm triết học -, vì vậy, tác giả cũng không chỉ đơn thuần là mất tích khỏi tác phẩm. Plato không chỉ đơn giản đứng ngoài cuộc đối thoại. Những người khác không chỉ khác hơn so với chúng ta. Ngược lại, tác giả ở đó, trong tác phẩm, tất cả đều cùng nhau có mặt ở đó. Plato có mặt trong cuộc đối thoại, có mặt dù vắng mặt, tham gia vào văn bản bằng cách không tham gia, hay nói ra bằng cách im lặng. Những người khác cũng là chúng ta, cũng như chúng ta là họ. Và ngay cả Plato đã chết không chỉ đơn giản là chết. Hay, chính xác hơn, khi đại dịch mang về nhà: người chết không bao giờ vắng mặt và người sống không bao giờ đơn thuần hiện diện. Thay vào đó, người chết và người sống không chỉ ở đây hay ở đó, mà là cả hai.

Điều này rõ ràng là tự mâu thuẫn: người chết như còn sống, và người sống như đang chết, cùng với sự hiện diện của một Plato vắng mặt. Không ai tin vào bóng ma, hay ma là cách người chết sống lại. Không một thực hành triết học nào - ngay cả trong đại dịch virus corona - có thể chuẩn bị cho chúng ta cái chết khi đang sống hay sự hiện diện của người chết trong đời sống của người sống.

May mắn thay, Plato gợi ý một lối thoát. Ngay khi bắt đầu cuộc đối thoại, Phaedo được hỏi liệu anh ta có hiện diện vào ngày Socrates uống thuốc độc trong tù hay không, hay liệu ai đó đã nói với anh ta về điều đó. Anh ấy trả lời: “Chính tôi đã ở đó.” Hay nói đúng hơn là Phaedo chỉ nói: “Bản thân tôi.” Hoàn toàn có thể chấp nhận được khi ngụ ý “Tôi đã ở đó.” Cũng giống như động từ “hiện hữu”, hiện hữu thường chỉ được ngụ ý trong tiếng Hy Lạp và trong nhiều ngôn ngữ khác, chẳng hạn như tiếng Do Thái hoặc tiếng Nga. Nhưng kiểu nói này không chỉ là một cách nói, vì ngụ ý chính xác là, không nói cũng chẳng phải không nói, không nói cũng chẳng phải vẫn im lặng, giống như sự tồn tại cũng không có trong câu trả lời của Phaedo.

Trong chính cấu trúc lời nói của mình, Plato thể hiện ngụ ý là như thế nào: không hiện diện cũng không vắng mặt, mà chỉ đơn thuần được ngụ ý. Người chết là như thế nào, họ là như thế nào: tức được ngụ ý - mặc dù không sống cũng không chết - trong đời sống của người sống. Đây cũng là cách chúng ta được người khác ám chỉ đến. Và ở đây, cuối cùng, triết học cho phép chúng ta thực hành: một hàm ý tư duy, nói ra bằng cách ngụ ý, ám chỉ đến những gì được làm và không được làm, được ngụ ý… Đây chính là lý do tại sao tôi đã dạy Phaedo của Plato trong thời kỳ đại dịch.

Khả Hân dịch
Dịch từ “Philosophy in the Time of the Pandemic” (http://thephilosophicalsalon.com/)  
(TCSH391/09-2021)


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHONG LÊĐó là: 1. Từ sự phân cách, chia đôi của hai thế giới - địch và ta, chuyển sang hội nhập, cộng sinh, có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa. 2. Từ cộng đồng chuyển sang cá nhân, cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển, nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng. Và 3. Từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu, hội nhập với khu vực và quốc tế, với sự lưu tâm hoặc cảnh báo: trong đi tắt, đón đầu mà không được đứt gẫy với lịch sử.

  • ĐỖ HẢI NINH(Nhân đọc tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Nxb Phụ Nữ, H, 2009; tác phẩm nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2009)

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện nay, vấn đề đổi mới thi pháp đang được nhiều người cầm bút quan tâm. Xin ghi lại cuộc trao đổi mới đây giữa tôi (PQT) với một nhà văn (NV) về vấn đề bức thiết này.

  • (Theo bách khoa thần học New Catholie)THẨM GIÁ PHÊ BÌNH Việc thiết định giá trị phán đoán trong phê bình đã được kiểm thảo một cách nghiêm khắc trong thế kỷ XX. Chẳng hạn, người ta cho rằng phê bình đã vượt lên cả tầm vóc “viên đá thử vàng” trong việc thẩm giá hội họa để dẫn dắt thị hiếu thưởng thức hội họa của công chúng.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.

  • ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)

  • HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.

  • ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…

  • HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.

  • HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết)         (tiếp Sông Hương số 248)

  • Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .

  • Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.

  • Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.

  • HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

  • PHAN TUẤN ANH “Cuộc nói chuyện của chúng ta đã cho tôi thấy rằng hết thảy những gì liên quan đến bản chất của ngôn ngữ mới ít được nghĩ đến làm sao”                                       (Martin Heidegger)

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học sáng tác là nhằm để cho người đọc tiếp nhận. Nhưng thực tế là người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Lý luận tiếp nhận truyền thống giải thích là do người đọc không sành.

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.