Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.
Ảnh: internet
Bản dịch tiếng Anh của dịch giả William Weaver (1923 - 2013) ra mắt tháng 9 năm 1985, nhà thơ Seamus Heaney (1939 - 2013) ngay sau đó đã đăng bài điểm tác phẩm này trên tờ New York Times với cái tựa đề “The Sensual Philosopher”. Bản Palomar tiếng Việt (dịch lại bản năm 2004) được phát hành ngày 09/08/2019 (Nxb. Văn Học, Vũ Ngọc Thăng dịch), xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài điểm sách nói trên của chủ nhân Giải Nobel văn chương 1995. |
SEAMUS HEANEY
Những phép đối xứng và số học luôn kích thích trí tưởng tượng của Italo Calvino nảy nở trò chơi quyến rũ và triển khai những biểu diễn diệu tưởng của nó. Từ thưở đầu, ông đã trao cho chúng ta một số khêu gợi nhị phân tuyệt vời trong truyện Tử tước chẻ đôi, một mẫu thức nhị nguyên về thiện và ác, một truyện-kể-sóng-đôi, được kéo mở một cách thông suốt và tinh quái như thể kéo mở một chiếc phéc mơ tuya trong một căn gác áp mái. Cùng một xung lực ngụ ngôn hoạt động với cùng một tính phóng khoáng trong Những thành phố vô hình, song thậm chí tinh nghịch và sáng tạo về cấu trúc hơn. Thế rồi ta có các truyện-kể-kiểu-trò-chơi-dây trong Lâu đài của những số phận đan chéo, được quy định song không mang tính xác định từ những mối quan hệ nội tại giữa các lá bài trong bộ tarot. Giờ thì chúng ta tự hỏi, liệu ông có thể dấn bước như thế lần nữa không?
Cuốn sách mới của Calvino có ba chương mục chính mang tiêu đề: “Những ngày hè của Palomar”, “Palomar trong thành phố”, và “Im lặng của Palomar”. Mỗi chương mục chính có ba chương mục phụ, mỗi chương mục phụ có ba mục, và Calvino đã lập ra một hệ thống đánh số cho chúng. “Các số 1, 2, 3 đánh dấu các tiêu đề trong mục lục” - ông viết - “dù ở vị trí thứ nhất, thứ hai, hoặc thứ ba, bên cạnh việc mang giá trị thuần thứ tự, còn tương ứng với ba khu vực chủ đề, ba loại trải nghiệm và thẩm tra, mà qua những tỷ lệ khác nhau, hiện diện trong tất cả các phần của cuốn sách.
“Những mục đánh số 1, nói chung, tương ứng với trải nghiệm thị giác...
“Những mục đánh số 2 chứa các yếu tố nhân học, hoặc văn hóa theo nghĩa rộng...
“Những mục đánh số 3 can dự đến trải nghiệm tư biện nhiều hơn, về vũ trụ, thời gian, tính vô cùng, mối quan hệ giữa cái ngã và thế giới...”.
Nhưng liệu rằng động lực hành ngôn này, vốn duy trì sự trung tính hết mực như được giải thích từ các nguyên tắc kết cấu ra cuốn sách, ở văn bản thực thụ có thể lan tỏa niềm thú vị và sự tán đồng xuyên suốt trong chúng ta hay không?
Vui thay, lược đồ hóa ra không chỉ là một bảng kê đơn; điều đối với một trí tưởng tượng không nặng ký bằng có thể là một mành lưới, thì ở đây hoạt động như một ván bật, và quả thật, dẫu sao, người ta ngờ rằng các chất liệu số học này đã phát triển từ những ngẫu tính sáng tác chứ không phải ngược lại. Mỗi trong các mẩu truyện đều mang cốt cách của một cảm hứng đơn biệt được thu chụp lúc nó trỗi lên và sau đó được trình tấu bằng toàn bộ tính sống động xác đáng của nó - dù rằng chỉ vừa đúng để cạn kiệt năng lượng ban đầu của mình.
Anh bạn Palomar là một ống kính được tác giả của mình sử dụng để thẩm định những hiện tượng của thế giới, song ống kính này lại lý tưởng cho việc biến thành một tấm gương phản ánh những ngại ngần và những tự điều chỉnh trong chính cái tâm trí mang tính phản ánh của anh bạn Palomar. Cuốn sách bao gồm một chuỗi các miêu tả và suy tưởng theo cấp độ, trong đó nhân vật đối mặt với vấn đề khám phá vị trí của mình trong thế giới, và chứng kiến những khám phá đó tan biến dưới cuộc rà soát trí tuệ thường lệ của mình.
Thế là động thái đầu tiên được mang tiêu đề “Đọc một ngọn sóng”, và ở đây, anh bạn Palomar cố gắng ngắm nhìn, miêu tả, và chụp bắt bản tính chính xác của một ngọn sóng đơn lẻ vào trong ngôn ngữ. Những sự chính xác của anh, mà anh phải xét lại không ngừng, liên tục thích đáng và liên tục bất cập; song chính những nhỡ nhàng này lại cấu thành sự thú vị của người đọc. Tuy nhiên, ở động thái cuối cùng, thì anh bạn Palomar đã hướng ánh mắt vào trong, và bây giờ là, như tiêu đề đặt cho mẩu truyện, “Học sự đã chết.” Song niềm khát khao về cái tri kiến nào đó của anh tiếp tục bị trêu ngươi và không được thỏa mãn: “Bạn không được nhầm lẫn sự đã chết với sự không tồn tại.” Ở giữa đó là 25 mẩu văn khác mà người ta lần lữa gọi là những bài thơ văn xuôi, vì điều đó khiến chúng nghe ra quá bị tác động, kém hài hước, hoặc lần lữa gọi là những chiêm nghiệm, vì điều đó hờ hững với sự bình dị và hớp hồn đáng yêu mang tính ẩn dụ của chúng. Dòng viết của Calvino thì thầm, nhẩn nha, chặt chẽ, vui hưởng chính nó một cách hết sức trêu chọc. Ánh mắt của ông, như khi anh bạn Palomar chiêm ngắm các vì sao, “gìn giữ sự cảnh giác, dọn mình, giải xả mọi sự chắc ăn”. “Dải Ngân Hà tháng Tám - ông bảo chúng ta - khắng khít dày đặc, có thể nói, ràn rụa ra cả hai bên luống.” Sự giản dị lộng lẫy của dòng viết, nghĩa vụ kép của nó trước thế giới và trước những ngôn từ xứng với thế giới, cái tri giác chan hòa về điều gì đó được khám phá một cách ngọt ngào và một cách cá nhân, song cũng về điều gì đó hầu như mang tính ký ức chủng loài, không khí mơ màng mênh mang và lâng lâng này là điển hình trong toàn tác phẩm.
Ở đây là một tài năng dạn dày không để bị cương tỏa, căng buồm lướt giữa sự tinh xảo của tính-tiền-phong và sự hồn nhiên của trí tưởng tượng mang mỹ cảm nguyên sơ, giữa kiểu trí tuệ đã kiến tạo những bộ bestarium thời Trung Cổ và trực-cảm-tiền-ký-tự mà xưa kia được người-săn-bắn-hái-lượm nghê nga xướng lên khi nguyện cầu. Nếu tính cách anh bạn Palomar đôi khi bị ám ảnh bởi cái bóng hờn gắt của Molloy trong vở kịch của Samuel Beckett, cố gắng vạch ra một phương pháp bất khả sai lầm trong việc luân chuyển những viên sỏi mút từ-túi-lên-miệng-từ-miệng-xuống-túi, và ở những lúc khác, bởi một Jorge Luis Borges tao nhân, nhỏ nhẹ giãi bày vấn đề liệu sự viết được tiến hành bởi “Borges” hay bởi “Tôi”, người đọc không bận tâm. Calvino cũng thế. Ông biết rằng, gì thì gì, cuối cùng, tất cả mọi người rốt cuộc đều bận tâm về cùng một điều.
Anh bạn Palomar bận tâm và ngắm nhìn không ngừng và bằng tiếng Ý; song William Weaver đã thuyết phục tôi rằng, giờ thì tôi biết cái tâm trí tỉ mẩn, sẵn lòng mê đắm, và ray rứt khôn nguôi một cách đáng yêu của đương sự qua tiếng Anh. Nhịp điệu và hương vị ngôn ngữ của Weaver có khả năng truyền tải cũng tài tình như thế cái tính chính xác chi li trong những cuộc tìm kiếm trí tuệ, cái tính lễ độ, cái tính khuê tình trong những cơn mơ mòng của anh bạn Palomar. Đó là một ngôn ngữ đưa chúng ta hướng đến cái bến bờ mà anh bạn Palomar không ngừng khao khát - “một bước tiếp cận gần hơn với sự biết chân thực, vốn được dựa trên cuộc trải nghiệm hương vị, hình thành đồng thời bởi trí nhớ và trí tưởng tượng”
“Đằng sau mỗi loại pho mát,” anh trầm ngâm, “có một loài cỏ xanh một sắc xanh khác, dưới một bầu trời khác: cánh đồng cỏ đóng muối thủy triều vùng Normandie mỗi chiều; cánh đồng cỏ ngát mùi hương liệu trong nắng gió miền Nam; có những bầy gia súc khác nhau, mùa lạnh nuôi thả trong chuồng trại dưới đồng bằng, mùa ấm di chăn lên núi; có những quy trình biến chế bí truyền qua bao thế kỷ. Cửa tiệm này là một viện bảo tàng: anh bạn Palomar, khi ghé thăm, cảm thấy như mình đang ở viện bảo tàng Louvre, đằng sau mỗi hiện vật trưng bày là sự hiện diện của nền văn minh đã tạo ra hình sắc cho nó và đảm nhận hình sắc từ nó.”
Tuy nhiên, cho dù khêu gợi niềm vui sướng giác quan, sự viết giục giã cuộc suy tư triết học, anh bạn Palomar, người mang cái tên của một ống kính viễn vọng và đài thiên văn lừng danh, vừa là “Tôi” vừa là “mắt”1, “Một thế giới đang nhìn thế giới”, như tiêu đề của một trong những cuộc chiêm nghiệm của anh bạn Palomar, một dấu hỏi tác động một cách hồi tố lên độ tín cậy tự thân: “Chẳng phải bản thân anh cũng là một mẩu của thế giới đang nhìn một mẩu khác của thế giới hay sao? Hoặc giả, vì có một thế giới bên này và một thế giới bên kia cửa sổ, nên có lẽ cái tôi không gì khác hơn chính là khung cửa sổ qua đó thế giới nhìn thế giới. Để nhìn chính nó, thế giới cần cặp mắt (và cặp kính) của anh bạn Palomar.”
Điều mà, may thay, đưa chúng ta, anh bạn Palomar và Italo Calvino vượt lên trên sự bế tắc của chủ nghĩa duy ngã, sự ngờ vực ngôn ngữ, và lên trên những ngọn lửa “thử nghiệm” lạnh lùng. Có thể có một vấn đề tri kiến, song tâm thức chỉ trở nên sống động trong vấn đề này khi thống khổ trước những khát khao trải nghiệm liên miên không thể dập tắt vốn chỉ muốn bung vượt lên trên nhà ngục của cái ngã. Calvino có thể phân chia và xếp loại bộ ba bình diện: hình ảnh, văn hóa, và tư biện trong thế giới của anh bạn Palomar, có thể gợi dẫn, gắn nhãn, phân tích, đối chiếu thỏa lòng ông (và chúng ta), song bản thân anh bạn Palomar vẫn luôn hồn nhiên và mở lòng một cách kì diệu trước sự bề bộn của các giác quan. Bãi cỏ, bộ ngực, đoàn chim di trú, hành tinh, tắc kè, trăng chiều, tiếng huýt chim sáo, tiếng cạch cạch cặp rùa giao phối, màn sương mù kỉ niệm... tất cả những sự này và ngàn sự khác sẽ gìn giữ tâm trí trước cái bữa-tiệc-bóng-tối tối hậu trong nó. Anh bạn Palomar, rốt cuộc, có thể, như cuốn sách mang tên anh ta, quỵ ngã thành một tam đoạn luận, nhưng không phải trước khi anh ta đã vượt qua cái kết cuộc của chính mình bằng hết trào dâng sáng lòa này sang trào dâng sáng lòa kia. Nếu trong chuyến đi của cuốn sách, người ta thường cảm thấy bước chân không thể sai lầm của Calvi- no, đó chính là vì ông không phải là một nhà văn nhàn-tản. Như Robert Frost, toàn bộ mối quan ngại của ông là về chính mình trong tư cách một nghệ sĩ biểu diễn, nhưng trong khi Frost biểu diễn ở ngang tầm mắt, như đã là, trên dây thanh âm và sợi tơ lòng, thì Calvino, ở tầm dây cáp cao, trên những dòng suy tư căng ngang bên trên cái sân xiếc quốc tế mênh mông. Song những biểu diễn ở tầm dây cáp cao như thế chỉ cuốn hút chúng ta vì người nghệ sĩ trên thực tế đang chịu lực hấp dẫn và hồn nhiên trước mọi rủi ro. Một trọng lượng nhẹ có thể nhún-nhứ-nhào-lộn tương tự song không thể khêu gợi được cái nhìn chằm chằm cổ xưa, chân phương, há hốc hy vọng và kinh ngạc mà tất cả chúng ta vẫn còn muốn được tham dự. Điều ấn tượng nhất về Palomar là cảm giác chiếc lưới an toàn rốt cuộc cũng thu lại; những kỳ công đơn độc, mẫn nhuệ, diễm lệ của trí tưởng tượng được hoàn thành không để chói lòa khán giả mà để thách thức (soi rọi) điều mà nhà thơ Philip Larkin gọi là “sự trống rỗng (cái tính không) hóa giải/ Nằm ngay dưới mọi thứ ta làm.” 2
Vũ Ngọc Thăng dịch
(TCSH376/06-2020)
-------------------
1. Trong tiếng Anh từ “eye” (mắt) đồng âm với từ “I” (tôi).
2. “the solving emptiness / That lies just under all we do.” (Heaney trích từ bài thơ Ambulances của Larkin)
THU TRANG (Pháp)Vài tháng nay ở Pháp đã rộn ràng xảy ra nhiều chuyện đáng để chúng ta suy nghĩ. Có lẽ trước hết là việc chiếc tàu Erika chở dầu đã bị vỡ hầm chứa ngoài khơi, biển Bretagne vùng Tây nước Pháp. Một đại nạn! Dầu đã bị sóng đưa vào bờ làm đen bẩn hầu hết các bờ biển, bãi tắm nổi tiếng.
NGUYỄN VĂN DŨNGSakuya là vị nữ thần cực kỳ xinh đẹp của xứ mặt trời mọc. Nàng là người đầu tiên tự tay gieo hạt giống cây anh đào trên núi Phú Sĩ. Mùa xuân hoa anh đào nở, đẹp cái đẹp lộng lẫy mê hồn của nàng. Bởi thế, người Nhật gọi hoa anh đào là Sakura - đọc trại từ Sakuya. Ngày nay, hoa anh đào đã có nhiều loại và mọc nhiều nơi, nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa anh đào ở núi Phú Sĩ.
VŨ LÊ THÁI HOÀNGTrong ánh nắng vàng rực tuyệt đẹp, giữa một New York hối hả, tấp nập, tua tủa nhà chọc trời, kiêu hãnh hiện ra bóng hình một phụ nữ khổng lồ tay cầm ngọn đuốc cháy sáng soi đường vào Tân Thế Giới.
ĐẶNG THỊ HẠNHMùa rét năm ấy ở Paris đã không có tuyết. "Một điều rất đặc biệt", ông Xuân Thủy nói với tôi như vậy khi tôi đi dạo với ông trong khu vườn bao quanh một cơ quan của Đảng Cộng sản Pháp dành riêng cho phái đoàn thương lượng của ta ở Paris .
HÀ PHẠM PHÚTôi chọn cái tựa trên cho bài viết một phần vì tôi bị ám ảnh bởi bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ của Kim Dung và bài của Quách Phong, một nhà nghiên cứu trẻ công tác tại đài phát thanh truyền hình châu Đại Lý - viết về chuyến thăm Đại Lý của nhà văn rất nổi tiếng này.
VÕ QUANG YẾNNúi cao cũng có đường trèo,Đường đi hiểm nghèo cũng có lối di. Ca dao
VÕ QUANG YẾNNguyễn Hải Đang, 20 tuổi xuân xanh, xúng xính trong bộ y phục mới tinh trường Bách Khoa Ecole Polytechnique, thường được gọi tắt là X.
NGUYỄN VĂN DŨNGKathmandu là kinh đô của vương quốc Nepal, nằm dưới chân Hy mã Lạp sơn. Là thành phố của tôn giáo và nghệ thuật, của nghi thức và lễ hội, của cổ kính và hiện đại, của thánh thiện và tâm linh, của suy tư và khát vọng, của du lịch và mộng mơ, của nắng gió và tuyết. Ngày nay, Kathmandu còn là thành phố của thanh bình và chiến tranh.
PHẠM THỊ ANH NGABài này nhằm giới thiệu một vài nét về diện mạo thi ca Pháp và một số hoạt động liên quan đến thơ trong xã hội Pháp những năm gần đây.
ĐINH CƯỜNGViện Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg, Paris vừa chấm dứt cuộc triển lãm qui mô, hàng trăm bức tranh của một họa sĩ lẫy lừng, bi thảm nhất thế kỷ hai mươi: Amedeo Modigliani.
ĐẶNG TIẾNNước Pháp có những thành phố nhỏ, lừng danh nhờ một sinh hoạt văn hoá. Ví dụ như Cannes, Deauville với những Đại Hội Điện Ảnh. Hay Angoulême nổi tiếng từ 30 năm nay với truyền thống Festival Quốc Tế Truyện Tranh BD, do chữ Bande Dessinée viết tắt, có nghĩa là băng hoạt họa (strip cartoon). Thành phố lịch sử với năm vạn dân, cách Paris hơn 400 km về phía Tây Nam, từ ngày 23 đến 26 tháng 1-2003, trở thành trung tâm thế giới về nghệ thuật Truyện Tranh BD, lần thứ 30.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Ghi chépMột chiều cuối đông năm ngoái tại góc Quán Cũ 25 Phan Đình Phùng, khi biết chúng tôi chuẩn bị chuyến khảo sát văn hóa tại Nhật Bản, giáo sư Đại học ngoại ngữ Tokyo Kawaguchi đề nghị chúng tôi nên bố trí kế hoạch đến Nhật vào mùa xuân để còn kịp ngắm hoa anh đào. Y lời, đúng ngày mở đầu tháng Tư năm nay, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, Viện trưởng Viện Văn học và tôi lên đường công du sang Nhật khi biết chắc hoa anh đào đã nở.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Ghi chép Truyền thống trong hội nhập...Rời xe bus số 64 chúng tôi rảo bộ trên con đường lát đá tảng của phố Della Concilia Zionli giữa hai hàng cột đá trông như những ngọn nến khổng lồ để đến với nơi mà bất kỳ người dân công giáo nào cũng hằng mơ ước.
NGUYỄN VĂN DŨNG KýSau gần nửa tháng rong chơi suốt hai đầu thượng hạ Ai Cập, tôi trở lại Paris chuẩn bị chuyến du hành sang Hy Lạp. Bỗng được tin của Văn Cầm Hải từ quê nhà: “Thầy về gấp. Đi Tây Tạng ngày 15/9”. Tôi quyết định ngay. Lúc ấy tôi không hiểu vì sao. Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao.
NGUYỄN VĂN DŨNGTôi mới có ý định leo núi Phú Sĩ trên đường từ Tokyo về cố đô Kyoto. Chiếc tàu siêu tốc chạy ngang qua vùng núi Fuji. Bên ngoài, trông Fuji hùng vĩ và đẹp hơn trong ảnh nhiều. Trên nền xanh thẳm của Công viên Quốc gia Fuji-Hakone-Izu, hai cánh núi từ tít tắp hai đầu Bắc Nam như đôi tình nhân thiên thu gặp lại, tràn về phía nhau. Và khi gặp nhau, cả hai hoà thành một, rồi bay vút lên trời, xuyên qua mấy tầng mây, để lộ giữa thinh không cao ngút cái chỏm mĩ miều như đầu ngọn bút lông.
TRẦN LỘC HÙNG1. Bạn bè tôi thường nói: “Không hiểu nước Nga nuôi mày kiểu gì mà tới bây giờ mày vẫn yêu nước Nga”. Vợ con tôi cũng vậy. Nước Nga dưới con mắt của những người thân của tôi hoàn toàn khác tôi. Đơn giản vì tôi đã tới nước Nga từ những năm tôi mới 17 tuổi, hơn nữa tôi đã sống, học tập và làm việc ở nước NGA ngót nghét 10 năm.
NGUYỄN VĂN DŨNG Bút kýChuyện kể rằng, vào một ngày tuyết trắng Tây kinh, Võ Tắc Thiên bỗng cao hứng lệnh cho tất cả loài hoa, nội trong một đêm phải nở hết. Sáng hôm sau, tuy giữa mùa đông giá lạnh, các loài hoa đều ríu rít nở, trừ... mẫu đơn. Võ Tắc Thiên giận lắm, bèn phán đày mẫu đơn xuống Lạc Dương cho khuất mắt. Từ đó, Lạc Dương trở thành quê hương của hoa mẫu đơn.
LÊ BÁ THỰ Bút kýNhận lời mời của Bộ Văn hoá và Viện sách Ba Lan, tôi đi dự Đại hội Dịch giả Văn học Ba Lan toàn thế giới lần thứ nhất. Sau khi đến Vacsava, sáng 11 tháng 5 tôi đáp xe lửa xuống Krakow , thành phố cách thủ đô Vacsava trên 300 cây số. Ngồi bên cửa sổ con tàu, tôi ngắm cảnh mùa xuân hai bên đường: những rừng thông tươi tốt, những cánh đồng lúa mì xanh xanh trải dài tít tận chân trời.
VI THÙY LINH Tuỳ bútNgười Trung Quốc (TQ) có câu: “Trên trời có thiên đàng, dưới có Tô Châu, Hàng Châu”. Chỉ thoạt nghe, đã thấy người ta thật tự hào, về cảnh đẹp thành phố (TP) này đến thế nào, trên đất Đại lục dày đặc thắng cảnh, di tích, kỳ quan của Trung Hoa cẩm tú.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNG Tản mạn từ Bruxelles Dưới mái hiên trạm gác cũ Porte de Ninove gần chỗ tôi ở có sống một cư dân đơn độc và lưu niên. Gã bù xù, tôi chỉ biết gọi gã như thế, nom chỉ trạc ngoài ba mươi nhưng có vẻ như đã cũ nát lắm rồi. Không ai biết gã từ đâu dạt vào, ở đó từ bao giờ.