Minh họa: Bửu Chỉ
VAXIN BƯCỐP Trên bờ sông Ông thường xuất hiện ở đây lúc hoàng hôn, khi cái nóng ban ngày đã hết và không khí mát mẻ từ dòng sông bắt đầu tỏa ra hai bên bờ có những khe mọc đầy cây nhỏ. Chiều tối gió gần như lặng, mặt nước không còn gợn sóng là lúc buổi câu đêm bắt đầu. Những người câu cá đi xe hơi từ thành phố đến, vội vã cắm những chiếc cần câu ngắn của mình trên bãi bồi lắm đá và ngay lập tức trải ra một chiếc áo nào đó, sắp xếp chỗ ở cho một đêm tháng sáu ngắn ngủi. Pê-trô-vích từ một làng nhỏ ven sông đi theo cái khe mọc đầy cỏ ra bờ sông và đơn độc ngồi xuống mép bờ dốc đá nhô ra tận mặt nước. Ở đây nhiều người biết ông. Một vài người lớn tiếng suồng sã chào ông, hỏi ông những câu không nhất thiết phải trả lời. Phần nhiều ông im lặng, chìm đắm trong riêng tư và không muốn đến với mọi người, ưa thích ngồi một mình trên bờ dốc đá quen thuộc, nơi hoàn toàn không thuận tiện đối với người câu cá. Từ đây tầm nhìn được mở rộng đến hết bờ sông đã tắt nắng chiều, đến khúc sông rộng uốn cong có bãi nông ở giữa, đến nhịp cầu xe lửa uốn cao ở đằng xa, đến bờ dốc thoai thoải của bờ sông đối diện, nơi có rừng thông non đen thẫm trong đêm. Cao hơn một chút là hình thù đồ sộ của chiếc tàu cuốc đang ầm ầm phun khói. Cả một ngày dài nó nhả ra trên bong của chiếc xà lan những đống đất nhão nhoẹt chảy tứ tung, mà chiếc xà lan chẳng hề cản trở. Mấy phút sau, từ mố cầu bê tông chiếc xuồng máy “cadanca” màu xanh lơ nhanh nhẹn chạy ra, khéo léo vòng qua bãi nông. Kéo sóng đuôi xuồng suốt chiều rộng của dòng sông phẳng lặng, nó giảm ga sau bãi nông và bắt đầu rẽ vào bờ. Trên chiếc “cadanca” có hai người. Đó là I. Ura Barơtos, chàng trai quê ở làng bên, hiện làm việc ở thành phố và thường về câu ở chốn cũ cùng với người bạn tỉnh thành của anh là Côlômiets. Họ góp vốn mua được chiếc “Cadanca” có động cơ khỏe và hiện đại. Như thường lệ, chiều đó Côlômiets ngồi sau tay lái ở đuôi xuồng. Đó là một người vạm vỡ, vai đứng với đôi bàn tay to khỏe và cái nhìn nặng nề chắc chắn dưới chiếc mũ cát két thể thao có lưỡi trai dài kéo đến tận trán. Nhịp nhàng giảm vòng quay tay lái anh cho xuồng cập bờ, nơi nổi bật lên hình dáng đơn độc của Pêtrôvich. - Nào, bố già giúp cho một tay! - Sau khi tắt động cơ anh kêu Pêtrôvich. Trong không gian vắng lặng của dòng sông, giọng trầm của anh vang lên như một mệnh lệnh thân mật. - Cần gì! Để tôi làm cho. - Iura nói, nhổm dậy sau tấm kính chắn gió. Anh nhanh nhẹn văng cái thân hình rám nắng, gầy gò, dài ngoẵng qua tấm kính, nhẹ nhàng nhảy lên bãi. Cả hai cùng Pêtrôvich kéo mũi xuồng lên bờ. Sau đó, trong khi Côlômiets che động cơ và Iura, mặc quần thể thao xanh đậm xắn đến gối lôi ba lô, thuyền thúng, áo mưa từ xuồng ra thì ông già như một người xa lạ đứng riêng ra một phía và chăm chú nhìn sang bờ bên kia, tựa như nhìn một cái gì đó quan trọng khác thường. Ông im lặng một cách chăm chú, gần như lạnh lùng, và họ bận việc riêng cũng không chú ý đến ông. Họ biết rằng, bây giờ ông sẽ đứng như vậy cho đến lúc chạng vạng mà nhìn vào một chỗ ở trên bờ, nơi vệt đường cát từ rừng thông non chạy ra đứt quãng đột ngột giống như chui xuống nước, và nơi mà bây giờ hai chiếc thuyền thúng buộc vào khúc gỗ tròn đang lắc lư trên sóng do chiếc “Cadanca” gây ra. Ở đó có một bến đò rừng, nhưng hầu như chưa bao giờ thấy người, còn đò thì ngoài những người thợ rừng ra rất hiếm người dùng. Khi những đồ lề câu cá đã được kéo lên bờ, thì Côlômiets bận bịu ngay với những chiếc thúng, tranh thủ lúc trời còn chưa tối, còn Iura, co ro vì hơi lạnh của dòng sông, vội vã trùm lên người chiếc áo len chui màu xanh biển. - Hôm nay củi đóm thế nào, bác Pêtrôvich? Ông già chưa rời ngay cặp mắt mờ đục, đầy nước khỏi bờ sông đối diện. Những ngón tay co quắp vì phong thấp của bàn tay to bản quen lao động trầm ngâm lần theo hàng cúc nối vạt áo bị kéo căng ra của chiếc áo quân phục cổ đứng đã sờn. - Ít cành khô lắm. Người ta lượm hết rồi… Đấy, chỉ có một bó nhỏ thôi. Bó sát người trong chiếc áo len chui, Iura trèo qua những mỏm đá lên bờ dốc, đưa mắt đánh giá bó củi khô lép kẹp buộc bằng sợi dây cũ. - Vâng, ít thật đấy. - Tôi nghĩ thế này: không nên đốt từ tối, - ông già nói nhỏ trong khi chậm chạp, cố gắng trèo lên bờ dốc theo Iura. - Gần sáng đốt tốt hơn. Chập tối chỗ nào cũng có người, họ sẽ giúp … Còn gần sáng mà tắt thì ai giúp được?... Nặng nhọc lê gót, ông đi có cái bờ dốc được ba bước và ngồi xuống, sau khi chống gối và buông thõng hai tay có những ngón xòe ra như những rễ cây già. Ánh mắt đau khổ của ông, khi bao quát dòng sông dừng lại ở bờ bên kia theo thói quen. - Có thể giữ lửa đến gần sáng - Iura đồng ý - Nhưng đến đêm thì chắc hơn. Hay là cháu chạy đi lục tìm trong khe xem nhé? - Ban đêm tất nhiên là tốt hơn… Không thì bọn chúng làm sao mà nhận ra được. Ngày trước ở kia còn có cái xóm nhỏ. Còn bây giờ thì không. Và cái cầu kia thì mới… Trông lạ hẳn. - Chính thế đấy. - Nhỏ nhưng vẫn là lửa. Dù cháy âm ỉ cũng nhìn thấy. - Đúng như vậy. Thế cháu chạy đi kiếm thêm củi, tranh thủ lúc còn chưa tối nhé! - Iura kêu lên từ trên bờ dốc, và Côlômiets ở bên dưới đang móc mồi vào lưỡi câu, không hài lòng quay đầu lại: - Cậu hãy bỏ chuyện nhóm lửa đi! Trời còn chưa tối, bỏ đấy đã. Chuyện củi mới thật là cần. Ở kia có cành cây khô không? - Được rồi, tôi đi ngay đây… - Iura vội vã bò theo những tảng đá lên phía những bụi rậm của rừng cây mọc trong khe lớn.
Còn lại một mình trên bờ dốc, ông già cũng lặng im. Bộ mặt đầy lông xám của ông biểu lộ những nét ưu tư quen thuộc từ xa xưa. Ông im lặng chăm chú hồi lâu, máy móc lần tay trên vạt áo vẫy dầu mỡ, và cặp mắt đầy nước của ông xuyên suốt bóng hoàng hôn dầy đặc nhìn không chớp sang bờ bên kia. Côlômiets ở bên dưới, huơ cán khéo léo buông giây câu trên mặt nước tối phẳng như gương. Lấp lánh sợi dây cước, hòn chì khẽ làm gợn sóng và chìm nhanh xuống nước kéo theo mồi câu. - Bố già này! Ở dưới dốc Côlômiets nói bằng giọng sỗ sàng - Thôi đừng chờ nữa. Sẽ chẳng có ai đến với bố đâu! Bố hiểu không? Trên bờ dốc Pêtrôvich rùng mình nhẹ tựa như vì lạnh. Bàn tay ông để im trên ngực và cả cái thân hình gầy gò xương xẩu của ông co lại trong chiếc áo cổ đứng. Nhưng ánh mắt ông vẫn hướng sang bờ bên kia như cũ, nơi mà có lẽ ông không nhận thấy gì, và dường như ông không nghe thấy lời nói thiếu dịu dàng của Côlômiets. Lúc này Côlômiets với vẻ khéo léo quen thuộc ném xuống nước hai hay ba chiếc thúng, buộc vào đá những chiếc cần câu ngắn có gắn những chiếc chuông nhỏ. - Tất cả bọn họ đều hùa nhau xỏ mũi bố già rồi. Thế mà bố vẫn tin chúng sẽ về! Chiến tranh chấm dứt từ lâu rồi, bây giờ còn ai trở về nữa! Bố thử nghĩ xem! Trên sông tối đi trông thấy. Bóng dáng lờ mờ của Côlômiets động đậy bên mép nước. Anh không nói gì thêm với ông già nữa và luôn luôn bận rộn với cần câu. Pêtrôvich ngồi im một lát rồi trầm ngâm nói nhỏ: - Thế đấy, thằng nhỏ, Tôlích… Đau mắt. Trời tối không nhìn rõ. Thằng lớn nhìn rõ. Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra với thằng lớn… - Chuyện gì xảy ra với thằng lớn thì cũng xảy ra với thằng nhỏ - Côlômiets thô bạo ngắt lời - Chiến tranh mà, nó có chừa ai ra đâu. Hơn nữa lại ở trong vòng vây… - Ừ! - Ông già đồng ý - Đúng là bị vây. Tôlích đau mắt mới ở nhà được một tuần thì thằng Alex chạy về nói: địch vây bốn phía rồi, mà lực lượng của ta lại ít. Thế là kéo nhau đi. Thằng nhỏ mới 16 tuổi. Bảo ở nhà không chịu. Lại còn dặn đốt đống lửa nhỏ báo hiệu khi bọn Đức rút đi… - Thật à? - Côlômiets ngạc nhiên, thậm chí nhổm người lên - Dặn là đốt lửa à!... Đó là thời gian nào?! - Ở Pêtrốpka. Đúng là ở Pêtrốpka, ừ… - Pêtrốpka? Thế đã bao nhiêu năm trôi qua rồi, bố có nhớ không? - Bao nhiêu năm à? Ông già tựa như rất ngạc nhiên, và dường như lần đầu tiên trong suốt buổi chiều rời mắt khỏi dải rừng mờ mờ của bờ sông phía trước. - Phải, bao nhiêu năm rồi bố không nhớ sao! Đã 25 năm qua rồi đấy, đầu óc bố mụ đi rồi! Nếp nhăn do nỗi đau sâu sắc trong lòng làm cho khuôn mặt già nua của Pêtrôvich méo xệch đi. Đôi môi ông run lên một vẻ hờn giận rất trẻ con, mắt chớp nhanh và ánh mắt dại hẳn đi. - Như thế… Sao lại như thế được? Toàn thân căng ra do sự cố gắng nhiều ở đó ở bên trong, có lẽ ông muốn, mà không thể nghĩ ra được một ý nghĩ biện minh nào đó với mình, và do sự căng thẳng quá sức chịu đựng ấy, ánh mắt của ông trở nên bất động, trống rỗng và rời khỏi bờ sông trước mặt. Mất hết sinh khí, trông ông u tối hơn và hoàn toàn chìm đắm trong riêng tư. Có lẽ, điều gì đó ở trong lòng đã làm ông tê liệt và câm lặng hồi lâu. - Con bảo bố thôi đi, đừng chờ nữa - bận rộn với dây câu, Côlômiets ở bên dưới khẳng định một cách thô bạo - Bọn trẻ không trở về đâu. Tiêu cả hai rồi. Xương cốt đã mục nát ở nơi nào đó rồi. Thế đấy! Ông già im lặng. Bận bịu với công việc của mình, Côlômiets cũng im nốt. Bóng đêm nhanh chóng trùm lên bờ bụi. Làn sương xám từ các khe ven sông bò ra, khắp con lạch sâu bốc lên những luồng hơi nhẹ như khói. Dòng sông mờ đục rất nhanh, mặt nước không còn ánh lấp lánh của ban ngày. Bóng đen của bờ sông phía trước đổ xuống, phủ bóng tối dày đặc lên mặt nước. Chiếc tàu cuốc đã ngừng kêu, không gian hoàn toàn yên tĩnh và thanh vắng. Và trong không khí yên vắng đó những chiếc chuông nhỏ của chiếc thúng vang lên thanh mảnh và dịu dàng như vẳng từ một nơi xa nào đó tới. Vất vả đặt đế ủng cao su trên đá, Côlômiets lao đến chiếc cần cắm sát mép nước và khéo léo lôi sợi dây câu lên. Anh không nhìn thấy trên bờ dốc Pêtrôvich khó nhọc đứng lên, lảo đảo và cong người lại lặng lẽ lê bước khỏi bờ sông. Có lẽ trong bóng tối ông già không gặp Iura. Anh xuất hiện ít phút sau trên bờ dốc, và ì ạch ném xuống chân một ôm củi khô: thật là to bên cạnh bó củi nhỏ của Pêtrôvich. - Ông già đâu? - Xem này, con cá to chưa? - Nghe tiếng bạn, Côlômiets khoái trá nói - Chắc phải đến nửa cân! - Nhưng Pêtrôvich đâu?... - Cảm thấy điều chẳng lành, Iura nhắc lại câu hỏi. - Pêtrôvich à? Có ai làm gì ông ấy đâu… Có lẽ đi rồi. Mình đã nói với ông già… - Sao? - Iura đứng như phỗng trên bờ dốc - Cậu nói cái gì? - Nói hết cả. Không thì mọi người cứ xỏ mũi ông cụ mãi. Cứ hùa theo nhau… - Cậu làm gì vậy! Cậu giết mất ông cụ rồi! - Thế mà là giết! Ông ấy sẽ sống! - Ôi thật là một đòn búa bổ! Ôi thật là một cú đấm thôi sơn! Mình đã nói với cậu rồi kia mà. Ở đây mọi người đều trân trọng, thương xót ông cụ. Còn cậu? - Thương xót gì! Phải cho ông cụ biết sự thật! - Sự thật sẽ giết ông cụ. Chính vì cả hai con của cụ đều hy sinh trong vòng vây. Mà trước đó chính cụ đã chở đò đưa họ sang bên kia. Và cứ chờ. - Chờ cái gì? - Làm thế nào được! Không chờ chẳng lẽ tốt hơn hay sao? Người khỏe mạnh còn không chịu được nữa là ông cụ. Cậu thật đáng trách! - Thôi, được rồi, được rồi… - Không, không được! Cậu phải biết ông cụ đi đâu! Ba lô của tôi đâu? Dưới bờ dốc bị bóng tối che lấp nghe rõ tiếng đá lở dưới bước chân, tiếng lẻng xẻng chói tai của dây xích kéo lê trên ván lát thuyền và một vài bước chân đi nhanh ra xa trong đêm. Khi những âm thanh đó chìm đi ở phía xa, dòng sông lại bị cái im vắng đặc quánh của ban đêm chế ngự. Hơi lấp lánh mặt nước đen, dòng sông trôi vào vô tận. Và dần dần ở những chỗ khác nhau trên đôi bờ chìm trong bóng tối, đây đó bắt đầu cháy lên những đống lửa của những người câu cá. Trong số đó đêm nay chỉ không cháy một đống lửa trên bờ dốc cạnh bến đò rừng, nơi mà cho đến sáng vẫn hoang vắng đìu hiu một vẻ khác thường. Đêm hôm sau nó vẫn không cháy. Và, có lẽ, nó không bao giờ cháy nữa. 10-9-1983 VŨ THAO dịch. (4/12-83) |
MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.
PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.
SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.
DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.
MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.
HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.
GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.
VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.
NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.
S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.
JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.
KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.
ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.
KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.
LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.
YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.
KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.
KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.