Trao đổi với Tạ Đình Nam về "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật

08:47 04/09/2008
MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.

Được biết có 9 bản tham luận trình bày trong buổi hội thảo đề cập tới nhiều góc độ khác nhau. Điều đó chứng tỏ "Đám mây lơ lửng" đã thu hút sự chú ý của nhiều độc giả yêu mến thơ Hoàng Vũ Thuật. Mới đây, nhân dịp ra Đồng Hới tôi may mắn đọc được bản tham luận của anh Tạ Đình Nam in trên báo Quảng Bình chủ nhật số 4493, ra ngày 21.7.2002 với tựa đề "Hồn quê đọng giữa mây trời". Bản tham luận đã đề cập đến một trong những đề tài quen thuộc của Hoàng Vũ Thuật và của thơ ca Việt từ xưa đến nay. Mỗi chúng ta ai chẳng có một làng quê thân thương trìu mến. Trong thơ ca Việt không ít bài nói về nỗi nhớ quê da diết. Tế Hanh nổi tiếng với bài "Nhớ con sông quê hương", Xích Bích trong tập thơ "Tiếng hát một chặng đường" có bài "Làng" được nhiều thế hệ những người yêu thơ nâng niu, trân trọng. Ngô Minh cũng có không ít những câu thơ viết về cái làng cát Thượng Luật day dứt và cảm động. Trong "Đám mây lơ lửng" đúng như Tạ Đình nhận xét "Có thể ví tâm hồn nhà thơ như người nông dân mặc áo công chức. Vì thế, dẫu trong cuộc sống đời thường được làm việc tiếp xúc trong điều kiện môi trường mới nhưng tấm lòng nhà thơ vẫn không nguôi nhớ về những kỷ niệm của làng quê quen thuộc. Những sắc màu trong "Đám mây lơ lửng" luôn chuyển động và ẩn hiện sau những liên tưởng trùng điệp. Đó là một làng quê cổ tích; một làng quê tuổi thơ với bao kỷ niệm êm đẹp, một làng quê quen thuộc với bao nếp sống bình dị thân thương". Nhận xét đó không chỉ đúng với Hoàng Vũ Thuật mà đúng với tất cả những ai cùng hoàn cảnh với Hoàng Vũ Thuật. Ở phần đề cập đến "một làng quê cổ tích" trong "Đám mây lơ lửng", Tạ Đình Nam đã dẫn ra những câu thật hay như những câu thơ về mẹ:
            Mẹ tôi nhóm trấu trong chiều
            Khói xanh lên đến cánh diều ngày xưa
            Gió lùa vạt áo phèn chua
            Mẹ đi như thể sợi mưa qua đồng
                                               
(Hương trấu)
Những câu thơ gợi nhớ về làng khi nghe tiếng chim gù giữa thủ đô Hà Nội:
            Ôi miền quê xóm mạc của tôi ơi!
            Tiếng gáy nối liền nhà liền ngõ
            Liền đất đai bao đời máu vỡ
            Hạt gạo thơm cúng tế vãi quanh vườn..."
                                               
(Tiếng chim gù trưa nay Hà Nội")
Chỉ tiếc là một số lời dẫn của Tạ Đình nam chưa thật phù hợp với nội dung và sắc thái biểu cảm thơ Hoàng Vũ Thuật. Chẳng hạn trước khi dẫn câu "Hạt gạo thơm cúng tế vãi quanh vườn" Tạ Đình viết "Làng quê cổ tích ấy với bao hủ tục đè nặng lên cuộc sống người dân". Đúng là ở thời cổ tích, có bao nhiêu hủ tục đè nặng lên cuộc sống người dân, trong đó có cả việc cúng tế. Nhưng không phải việc cúng tế nào cũng là hủ tục. Đặc biệt ở câu thơ này Hoàng Vũ Thuật đang nói đến một tập tục cúng tế đầy tính nhân văn. Đó là rải những hạt gạo thơm quanh vườn cho những linh hồn vất vưởng không nơi nương tựa. Lời dẫn sau đây của Tạ Đình theo tôi cũng chưa thật phù hợp: "Ở làng quê có các chức sắc hàng ngày ngự trị trong cuộc sống người dân".
            Những cụ Tổng, mõ Lòi, bác Khoá
            Nghe âm âm cổ tích xa vời
Đúng là ở làng quê thời "cổ tích" có các chức sắc hàng ngày ngự trị trong đời sống người dân. Nhưng không phải vị chức sắc nào cũng hách dịch, cường hào, ác bá. Theo tôi được biết vào cái thời "cổ tích" ấy vẫn có những vị chức sắc hết lòng thương yêu nhân dân, được nhân dân quí trọng và yêu mến. Căn cứ vào giọng thơ, cách xưng hô và mạch liên tưởng tôi tin là những cụ Tổng, mõ Lòi, bác Khoá ấy chắc đã để lại những ấn tượng tốt đẹp trong ký ức nhà thơ. Tác giả nhớ về họ như Vũ Đình Liên nhớ về "những người muôn năm cũ - hồn ở đâu bây giờ".
Phần cuối của bản tham luận, Tạ Đình đã mạnh dạn nêu ra một số điều cần bàn thêm trong "Đám mây lơ lửng". Tôi cho đây là một việc đáng khuyến khích. Trao đổi văn chương cần thẳng thắn và cởi mở. Những người làm thơ tâm huyết, có trách nhiệm đều mong muốn độc giả, nhà phê bình nghiên cứu chỉ ra cho mình những hạn chế, nhược điểm để có hướng khắc phục sửa chữa sao cho thơ mình ngày càng hay hơn, được nhiều người mến mộ hơn. Tôi rất ngán kiểu phê bình khen chê chiếu lệ. Vì thế đọc phần cuối bài tham luận của Tạ Đình về "Đám mây lơ lửng" tôi rất cảm phục. Tuy vậy tôi cũng xin phép được trao đổi lại một đôi điều. Trước hết tôi đồng tình với Tạ Đình rằng: "Đọc một số bài thơ trong "Đám mây lơ lửng" nhiều lúc tâm hồn ta cảm thấy bâng khuâng một nỗi buồn...". Nhưng không chỉ đơn thuần là nỗi buồn "đối với cuộc đời thực tại". Trong cuộc sống hôm nay vẫn tồn tại những con người, những số phận làm Hoàng Vũ Thuật cảm thấy chán ghét, cảm thấy đau lòng. Anh chán ghét những kẻ tâm hồn trống rỗng như những khối bê tông chọc trời "với gương mặt lì ra không đổi" (Ngã tư Thánh đường), anh đau lòng trước những đứa trẻ không quê: "mòn chân trên trần gian bụi đỏ/ Đi hết bốn mùa không nhớ nữa/ Ngửa lòng tay thay tiếng nói của mình"... Nhưng cái chán ghét hay đau lòng ấy của Hoàng Vũ Thuật hoàn toàn không phải "do ảnh hưởng nhất định của tinh thần học thuyết vô vi" như anh Tạ Đình lý giải. Đây là cái phẫn nộ của một con người không cam tâm khi đứng trước sự trì trệ, đứng trước những tín đồ giáo điều cũ rích; cái đau lòng của một con người giàu lòng trắc ẩn trước những số phận bất hạnh lẽ ra không còn tồn tại trong xã hội của chúng ta hôm nay. Người theo triết lý thanh tịnh vô vi thường sống theo lẽ tự nhiên bởi họ cho rằng: "Trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên". Họ thường sống ẩn dật, vui thú điền viên lánh xa chốn bụi trần với một tâm hồn vô cùng thanh thản, Nguyễn Trãi đã từng có những giây phút muốn sống thanh tịnh vô vi như thế: "Nay ta chỉ thích nằm trong núi/ Nhà dựng bên hoa đọc sách cha..." Nhưng tấm lòng yêu nước thương dân vẫn canh cánh bên lòng. Nên muốn thanh tịnh vô vi mà không thể nào vô vi thanh tịnh được: "Bui có một lòng trung lẫn hiếu. Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen"... Hoàng Vũ Thuật chắc cũng có những giây phút muốn "vô vi trong khói hương cầu nguyện" nhưng đó đâu phải là "quan niệm sống của anh". Anh vẫn là một công chức mẫn cán. Anh vẫn là một nhà thơ luôn trăn trở trước số phận của những con người bất hạnh, trước những điều ngang trái lẽ ra không còn tồn tại trong cuộc sống hôm nay. Nếu sống theo triết lý thanh tịnh vô vi làm sao Hoàng Vũ Thuật còn thấy mình xấu hổ trước nghịch cảnh: "Đồng trĩu phù sa, nhà cao mái phố" lại có những đứa trẻ "ngửa lòng tay thay tiếng nói của mình". Phải động lòng trắc ẩn lắm, phải có trách nhiệm công dân lắm nhà thơ mới tìm hỏi gió, hỏi sương, hỏi sao đêm, hỏi ánh chiều về cái điều ngang trái ấy... Đấy là câu hỏi thức tỉnh lương tâm chứ đâu phải "mất niềm tin, mất phương hướng" như anh Tạ Đình nhận xét. Trong "Đám mây lơ lửng" quả có khi có lúc ta bắt gặp tâm trạng cô đơn, buồn chán của tác giả. Đó là những giây phút Hoàng Vũ Thuật nhớ đến mối tình thầm lặng, uẩn khúc, vô vọng của mình. Những tâm hồn đồng điệu chia sẻ cùng anh những khổ đau hết sức trần thế như đã từng chia sẻ với thơ tình Puskin, Hainơ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu... Lẽ nào có thể trách họ "lỗi nhịp với trái tim quần chúng"? Tiện đây cũng xin nhắc anh Tạ Đình rằng thời kỳ 1930 - 1932 đâu phải là thời kỳ "lột xác" của các nhà thơ mới. Và vấn đề thơ mới 1930 - 1945 hiện nay đã được nhìn nhận lại với những đánh giá xác đáng hơn so với cái thời từng coi thơ mới như là một thứ dịch hạch cần phải tẩy rửa. "Bế tắc trong thế giới quan và phương pháp sáng tác" mà làm được những bài thơ như "Ông đồ" của Vũ Đình Liên, "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử, "Tràng giang" của Huy Cận, "Tống biệt hành" của Thâm Tâm... là điều đáng để cho chúng ta suy nghĩ. Hơn ai hết những nhà thơ có lương tâm luôn cắn rứt khi thấy thơ mình chưa làm được những điều mà mình mong muốn. Puskin đã từng than thở: "Giá thơ tôi rung động được lòng người/ Sao tim tôi vẫn cháy một nhiệt tình vô bổ/ Sao trời không cho tôi tài hùng biện để làm nên giông tố"... Như những người đi trước, Hoàng Vũ Thuật chưa bao giờ bằng lòng với chính mình: "Câu thơ như quả dại rừng sâu/ Như mái chèo bỏ sông đi biền biệt"... đó là ý thức trách nhiệm của người làm thơ chứ đâu phải "bi quan về số phận tương lai của thơ mình". Với tâm niệm và trăn trở ấy, tôi tin Hoàng Vũ Thuật sẽ còn hứa hẹn những mùa gặt mới.
M.V.H

(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).