Tác giả Jon Fosse, người Na Uy, 64 tuổi, đạt Giải Nobel Văn học 2023 nhờ “những vở kịch và văn xuôi tân tiến, lên tiếng cho những điều không thể nói”.
Ảnh: tư liệu
Tại buổi lễ - diễn ra lúc 13 giờ ngày 6/10 (giờ Stockholm, tức 18 giờ - giờ Hà Nội), Anders Olsson, Chủ tịch Ủy ban Nobel, vinh danh Jon Fosse. Tác giả sẽ nhận phần thưởng 11 triệu krona Thụy Điển (khoảng 991.000 USD).
Ủy ban nói về Fosse: “Tác phẩm đồ sộ của ông, viết bằng tiếng Na Uy và trải dài trên nhiều thể loại, bao gồm vô số vở kịch, tiểu thuyết, tuyển tập thơ, tiểu luận, sách thiếu nhi và các bản dịch. Ngày nay, ông là một trong những nhà viết kịch có tác phẩm được biểu diễn rộng rãi nhất trên thế giới, ông cũng ngày càng được công nhận trong lĩnh vực văn xuôi”.
Fosse, sinh năm 1959 tại Haugesund, trưởng thành ở miền Tây Na Uy, trong một trang trại nhỏ tại Strandebarm. Ông bắt đầu viết thơ và truyện từ năm 12 tuổi. Ông từng chia sẻ: viết lách là một hình thức giải thoát. “Tôi tạo ra không gian riêng của mình trên thế giới, một nơi mà tôi thấy an toàn” - ông nói với The Guardian năm 2014.
Hồi trẻ muốn trở thành tay guitar chơi rock, ông theo học ngành văn học so sánh ở Đại học Bergen và xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Red Black năm 1983, ông viết bằng Nynorsk - ngôn ngữ thiểu số, thay vì tiếng Bokmal - ngôn ngữ Na Uy được sử dụng rộng rãi hơn trong văn học. Fosse cho hay, việc lựa chọn Nynorsk là bởi ông đã trưởng thành với ngôn ngữ này.
Cuốn tiểu thuyết đầu tay “Red, Black” khởi đầu một sự nghiệp lẫy lừng. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông gồm tiểu thuyết “Melancholia”, “Morning and Evening”, “Septology”…
Dù khởi đầu là nhà thơ, tiểu thuyết gia, Fosse vang danh với tư cách là một nhà viết kịch. Ông được công nhận quốc tế vào cuối những năm 1990 với vở kịch đầu tiên tại Paris “Someone Is Going to Come”. Ông viết vở kịch này trong vòng 4 hoặc 5 ngày và không hề sửa lại kịch bản.
Trong 15 năm, ông tập trung vào sân khấu và đi nhiều nơi trên thế giới để quảng bá các tác phẩm của mình. Sau đó, ông ngừng đi khắp nơi, bỏ rượu, cải đạo sang Công giáo và tập trung hẳn vào viết tiểu thuyết.
Fosse chia sẻ, hàng thập kỷ viết lách đã dạy ông khiêm tốn, gạt những kỳ vọng sang một bên. “Khi bắt đầu viết, tôi không bao giờ cảm thấy chắc chắn rằng mình có thể viết được một tác phẩm mới. Tôi không bao giờ lên kế hoạch trước bất cứ điều gì, tôi chỉ ngồi xuống và bắt đầu viết. Và có một thời điểm nào đó, khi tôi cảm giác rằng tác phẩm đã sẵn sàng để viết ra, tôi chỉ cần viết ra trước khi nó biến mất” - ông nói.
Tác phẩm của ông bao gồm khoảng 40 vở kịch, nhiều tác phẩm tiểu thuyết, thơ, sách thiếu nhi và sách dịch.
Dưới đây là một số bài thơ của Jon Fosse trích từ trang Poemhunter.com (Theo bản tiếng Anh của May-Brit-Akerholt).
Thân Trọng Sơn dịch và giới thiệu
JON FOSSE
Một con người đang ở đây
Một con người đang ở đây
rồi biến mất
trong một trận gió
tan vào
phía bên trong
và gặp những chuyển động
của đá núi
và trở thành ý nghĩa
trong sự hợp nhất luôn mới mẻ
của cái là
và cái không là
trong im lặng
nơi gió
trở thành gió
nơi ý nghĩa
trở thành ý nghĩa
trong sự chuyển động biến thân
của mọi thứ đã có
và lập tức có
từ một cội nguồn
nơi âm thanh mang nghĩa
trước khi ngôn từ tự phản thân
và từ đó chẳng còn gì xa cách con người
Nhưng nó có
trong toàn bộ quá khứ và tương lai
và có
trong cái gì
không tồn tại
trong ranh giới đang biến tan
giữa cái đã có
và cái sẽ tới
Nó vô cùng và không khoảng cách
trong cùng một chuyển động
Nó dọn sạch
và biến mất
và vẫn còn đây
trong lúc biến thân
Và nó thắp sáng
vùng tối tăm của mình
Nó chẳng ở đâu
Nó ở khắp nơi
Nó ở gần
Nó ở xa
và thân thể với tâm hồn nhập lại
như là một
và nó nhỏ nhoi
và to lớn
như mọi thứ
nhỏ như không có gì
và ở nơi có tất cả hiển minh
và không gì biết được
trong tự thân sâu nhất bên trong
nơi không gì chia cắt
và mọi thứ lập tức là chính nó và tất cả những gì khác nó
trong cái bị cắt chia
mà không bị cắt chia
trong ranh giới vô tận
Cách thức tôi để nó biến đi
trong hiện diện hiển nhiên
trong chuyển động tan đi
và bước đi loanh quanh trong ngày
nơi cây là cây
nơi đá là đá
nơi gió là gió
và nơi ngôn từ toàn bộ không thể hiểu
về mọi thứ đã có
về mọi thứ biến mất
và những gì còn lại
là ngôn từ hòa đàm.
Núi nín thở
Một hơi thở thật sâu
Và ngọn núi đứng đó
Rồi ngọn núi vẫn đứng đó
Đấy là cách núi hiện hình
Và cúi mình
Cúi xuống
Vào chính mình
Và nín thở
Trong khi biển và trời
Vỗ về và đánh đập
Ngọn núi nín thở
Như con thuyền trong cơn gió nhẹ
Bạn và tôi
Bạn và ánh trăng
Bạn và cơn gió
Bạn
Và các vì sao
Có lẽ
Trước các mùi hôi thối
Của thi thể
Đang bị chôn vùi
Dưới lòng đất
Những người khác, như chính tôi
Hoặc những người đang cháy bỏng
Trong niềm hy vọng tuyệt vọng
Chẳng đau đớn, tất nhiên là phải vậy
Vâng, như con thuyền trong cơn gió nhẹ.
Chỉ biết
ca khúc, ca khúc biển khơi
lướt từ dãy núi xuống đồi dốc xuôi
rồi xuyên ngang khắp bầu trời
trong bay xanh, tỏa chơi vơi mờ mờ
về nơi chúng ta đang cùng hội ngộ
là nơi ta mãi mãi thinh
thôi thì chỉ biết vậy thôi
Thánh vịnh đêm
Có trái đất mở toang
đêm vực thẳm đen của nó
và tâm hồn và thân xác sẽ giấu che
cho đến lúc không còn gì thiếu vắng
Có một đêm gặp gỡ ta
đón nhận ta êm đềm tử tế
và để ta trân trọng cho ngơi nghỉ
bàn tay, bàn chân và tâm hồn bay trên cao
Vì Thượng đế ở trong tất cả những gì trên mặt đất
trong đêm trù phú trên kia
hồn ta là hồn Người, ta là thế giá của Người
ta rạng rỡ tình yêu của Người trên thiên giới
J.F
Nguồn: Poemhunter.com
(TCSH418/12-2023)
L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.
OCTAVIO PAZ
(Nobel Văn Chương 1990)
Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).
Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp
LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.
Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans
F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.
Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.
FREDERICK TURNER
FREDERICK FEIRSTEIN
Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.
Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.
L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.
L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.
Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.
Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.
PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính
LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.
PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)