LTS: Nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ nổi tiếng "Màu tím hoa sim", tham gia cách mạng từ năm 1936 trong phong trào học sinh ở Thanh Hóa.
Nhà thơ Hữu Loan - ký họa của Hải Bằng
Tham gia khởi nghĩa Nga Sơn, tháng 8-1945, ủy viên ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa - Phụ trách báo Chiến Sĩ của Liên khu 4 - Tuyên huấn Sư đoàn nổi tiếng 304. 1954 công tác ở Hội nhà văn Việt Nam. Sau chuyện "Nhân văn - Giai phẩm" ông trở về quê làm ruộng, và suốt 30 năm không bước chân ra Hà Nội.
Sông Hương xin trân trọng giới thiệu 3 bài thơ của ông, gồm 2 sáng tác cũ và một đoạn trích trường ca.
HỮU LOAN
Phương gió
Bộ đội liên hoan mai đã đi
Người từ ven núi dọc bờ khe
Bãi khuya khe núi đồng thanh tắt
Tan kịch người thôn nối đuốc về
Bộ đội lên đường dưới rặng cây
Rào thưa ngõ chống dóng tre gầy
Từng tay già nắm từng tay trẻ
Tưởng đến đây thì ở mãi đây
Bộ đội lên đường nối tiếp nhau
Vang vang kèn lệnh dội bên cầu
Trông theo bụi cuốn vàng lưng ngựa
Làng xóm quê mùa nếp váy nâu
Chiều xuống nhà sao rộng quá chừng
Nền cao đất trắng lạnh bàn chân
Người xa gối súng dài đêm lạ
Mắt mẹ xa vời bóng xám sân
Sương ở đâu nhiều chăn chiếu vá
Ở đâu lửa rắc lụi tro dần
Bờ khuya ai múc lầm phương gió
Cho để rơi đài xuống giếng trăng
Nguyễn Sơn
Nguyễn Sơn như con tàu biển khổng lồ
mang giông tố đại dương đi đến đâu
không
cho
sóng
ngủ
Nguyễn Sơn như núi lửa mọc ở đâu
là gây những đám cháy
vòng quanh
Từ Vạn Lý Trường Chinh
Nguyễn Sơn về Liên khu Tư
những năm đầu kháng chiến
Liên khu Tư của
Nghệ Tĩnh lầm lỳ
và nước Liên khu Tư
đã biết thế nào là giông biển
và rừng Liên khu Tư
đã biết thế nào là cháy rừng.
Phải vì Đất như giường hẹp
Nằm thừa
đầu
thừa
chân
phải vì giường không đầu
một bước đi vạn lý
Nguyễn Sơn ra đi
không
ai
ngờ...
Những thằng đại xu nịnh ngày xưa
trở mặt
nhưng lịch sử và thời gian
không
bao
giờ
phản trắc
Còn vang dội mãi rừng núi Nưa
tiếng Nguyễn Sơn
một
lần
truyền
hịch
còn vang dội mãi những tâm hồn
những o gái Liên khu Tư
mắt xanh màu Trường Sơn
mang trong mắt hình ảnh người
Râu - Hùm, Hàm - Én.
gần thì sợ ghê
nhưng xa thì nói
không bao giờ hết chuyện
những gánh trống chèo
những kèn đồng gươm gỗ
lỉnh kỉnh
gánh gồng khiêng vác
những gia đình nghệ nhân toàn gia
dắt dìu bế bồng
không chỗ nào là không tụng ca
người mê xem quân nhân văn nghệ
Nguyễn Sơn
Nhưng ngày 22 tháng 10
đọc báo Nhân Dân thấy đăng cáo phó
"Thiếu tướng Nguyễn Sơn
đã từ trần!"
- Thiếu tướng Nguyễn Sơn nào?
- Làm gì có mấy Nguyễn Sơn!
Đành rằng sống chết con người tại số
nhưng hình như có bàn tay
Định
mệnh
khốc
liệt
nào
đặt lên cung kiếp Nguyễn Sơn
Một cuộc đời ngắn ngủi
bao nhiêu là bất thường
bất thường đến
bất thường đi
về bất thường
chết lại càng
không
đúng lúc!
Văn nghệ sĩ bao người đã khóc
khi đọc báo Nhân Dân
thấy cáo phó Nguyễn Sơn
Và ngày 22 tháng 10 trên khắp nẻo đường Thủ đô
một đám tang đã diễu hành
một đám tang
cờ đỏ liệm quan tài
nấc lên màu huyết...
Một đám tang đi
không
bao
giờ
tới
huyệt!
Hà Nội, 10-1956
Ái hoa và nấm độc
(trích)
…
Những bão tố chiến tranh
những tai họa không tên
sẽ cập bến
các vì tinh tú!
Khối đoàn kết tinh cầu
sẽ
không còn nữa
Khách quý trần gian
đã hạ cố lên chơi
mang theo chân
đói rách
hiềm nghi
nịnh hót
vô luân
cướp của giết người
- Có những vì sao
như mắt đẹp em ơi
sẽ vĩnh viễn tắt đi
như vĩnh viễn
mắt em nhắm ngủ!
*
Đừng đánh giá văn minh loài người
bằng những cuộc
đi mây
về gió
hay
bằng những chùm vệ tinh
đeo quanh quỹ đạo Địa Cầu
như một chuỗi nữ trang
*
Chưa có triều đại nào
lo cho dân
cái ăn
xây cho dân cái ở
trước khi xây
cung vua
và lăng mộ
Kim Tự Tháp
kỳ quan
hay tội ác
để đời
của tập đoàn
pharaông
bạo chúa?
*
Khoa học nuôi dân
chưa
hiện
đại
bao giờ!
Chỉ có khoa học
giết người
là siêu bình phương
là siêu bình phương
hiện đại!
Ở điểm này
bọn buôn nước
buôn dân
có thể vỗ ngực
tự hào
không những bằng trời
mà còn bỏ cách xa trời
*
Những chiến tranh
bị cưỡng bức đi
xâm lăng vũ trụ
nay mai
Những bãi chiến trường
sẽ không còn là
làng xóm
thảo nguyên
hay sa mạc
dưới đời!
Xác những chinh phu
không còn dùng da ngựa
hay ni lông để gói
xương trắng
chiến binh
Không còn được làm mồi
cho rùa hang
chó núi
Tam giác thần nào vũ trụ nào
sẽ treo lửng lơ
mãi mãi
hay sẽ rơi vào
vô cực
đâu đâu?
*
Trên đất lành
nếu đem hạt cỏ ta tung
sẽ mọc ngay
xanh rì
mùa cỏ
Nếu đem gieo ré đó
bón phân gì đi nữa
cũng không thành
tấm thơm
(thu hoạch dù bội hơn
bông nhiều và hạt mẩy)
Rặt nòi
là như vậy
hay
nòi nào thì giống nấy
*
Vào không gian mênh mông
nếu ta tung hoa lành
gió lên
mùa hương ngát...
Năm 1982
(SH32/08-88)
HOÀNG CẦMChỉ biết nói cùng mẹ
Ngô Thái Dương - Đinh Thị Như Thúy - Khaly Chàm - Tuệ Lam - Nguyễn Hữu Hồng Minh - Đoàn Mạnh Phương - Nguyễn Nguyên An - Mai Bá Ấn - Hồ Thế Hà - Lê Ngã Lễ - Hồng Thị Vinh - Từ Nguyễn - Trần Hữu Lục - Cao Hạnh - Phạm Nguyên Tường - Trần Hữu Dũng - Đoàn Lê - Trần Văn Hội - Đoàn Thị Tảo - Thiên Thanh - Trần Thị Linh Chi - Trần Hoàng Phố - Lưu Ly - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Loan - Inrasara - Nguyễn Tiến Chủng - Vĩnh Nguyên - Mai Văn Phấn
Lê Huy Quang - Kiều Trung Phương - Nguyễn Văn Quang - Phan Trung Thành - Hà Đức Ái - Cao Quảng Văn - Đỗ Hướng - Lê Vi Thủy - Nguyên Tiêu - Trương Minh Phố - Hoàng Xuân Thảo - Phạm Bá Nhơn - Lê Huy Hạnh - Ngô Cang - Trương Nam Hương - Ngàn Thương - Võ Ngọc Lan - Võ Văn Hoa - Hồ Đắc Thiếu Anh - Tôn Phong - Châu Thu Hà - Lâm Xuân Vi - Ngô Công Tấn - Triệu Nguyên Phong - Dzạ Lữ Kiều - Nguyễn Thị Hồng Ngát - Đức Sơn
NGUYỄN ĐÔNG NHẬTTrở về
TRẦN VẠN GIÃBài nhã ca mùa xuân
NGUYỄN HOADự cảm
Nguyễn Khắc Thạch - Võ Quê - Trần Quốc Toàn - Thục Quân - Nguyễn Loan - Nguyễn Văn Phương - Thái Doãn Long - Vương Hồng Hoan - Nguyễn Khoa Như Ý - Lê Viết Xuân - Đỗ Văn Khoái - Thanh Tú
Hoàng Phủ Ngọc Tường - Nguyễn Sơn Nhân - Lê Thị Hường - Phạm Nguyên Tường - Ngô Cang - Hồ Thế Hà - Ngô Minh - Mai Văn Hoan - Nguyên Quân - Đoàn Thương Hải - Ngàn Thương
Phạm Tấn Hầu - Văn Hữu Tứ - Dương Lễ - Nhất Lâm - Văn Cầm Hải - Phan Trung Thành - Trương Quân - Lê Tấn Quỳnh - Hồ Trường An - Hải Yến - Tôn Nữ Như Ngân - Thủy Chi
Tóc Nguyệt - Huỳnh Minh Tâm - Cát Du - Anh Nguyễn - Hải Trung
ĐÀO DUY ANHLời nói dối
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝKhúc tình tự dòng sông
LTS: Ngày 10-12-2009, thi sỹ Nguyễn Trung Bình đã qua đời sau cơn bệnh. Anh sinh ngày 10/5/1968 tại thị xã Hội An. Sau khi tốt nghiệp Khoa Ngữ văn, ĐH Tổng hợp Huế (1991), thi nhân đã lang bạt khắp nơi rồi về sống ở Sài Gòn suốt hơn 15 năm qua với đủ nghề gắn liền với thơ, sách và nghệ thuật.
Nguyễn Thái Sơn - Nguyễn Hiệp - Chu Minh Khôi - Hà Huy Tuấn - Nguyễn Thánh Ngã - Minh Tự - Diệp Thảo Minh Dzương - Hàn Nhật Châu - Bá Vi Tuân
NGUYỄN HỮU HỒNG MINHTổ quốc
LGT: Quê ngoại xứ Huế, quê cha gốc Bắc nhưng Nguyễn Thị Ánh Huỳnh lại là con gái Cần Đước, Long An. Chị đã xuất bản 3 tập thơ, nhận một số giải thưởng thơ. Nhưng những điều đó với chị không quan trọng bằng việc làm thơ để “khiến ta được giải phóng khỏi bản thân mình để thử làm kẻ khác, làm chim muông cây cỏ, sương gió... ngu ngơ hơn, huyền ảo, linh diệu hơn”, và nữa “để làm mình làm mẩy với phận số cô đơn của mình, được giải toả, được thoát khỏi cái chật hẹp của tham - sân - si...” (tự bạch).
Nguyễn Văn Tam - Mai Thanh - Cao Hạnh - Phan Văn Chương - Nguyễn Hoa - Từ Hoài Tấn - Ngàn Thương - Vân Anh - Trần Hữu Lục - Lê Tấn Quỳnh
Đào Phương - Hồ Trường An - Văn Lợi - Nguyễn Lương Hiệu - Đoàn Mạnh Phương - Phan Đình Tiến - Nguyễn Thanh Mừng - Trương Quang Thứ - Nguyễn Thụy Kha - Lê Quốc Hán - Phụng Lam
LƯƠNG NGỌC AN (Trích Phác thảo những lời ru)
Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Thánh Ngã - Trần Tịnh Yên - Huỳnh Lê Nhật Tấn - Nguyễn Quang Hưng