Tập thơ và hồi ký "Sau mưa thôi nã đạn" - Ảnh: internet
Năm 1995, ông nhận bé Nguyễn Thị Hạnh làm con nuôi. Và đó là một câu chuyện rất đẹp trong cuộc đời ông. Bruce được xem là một hiện tượng đặc biệt, một trong những gương mặt xuất sắc nhất của nền văn học đương đại Mỹ. Đến nay, ông đã là tác giả của 25 cuốn sách, Tập thơ Bài hát bom na-pan gồm những bài thơ viết về chiến tranh Việt Nam của ông đã được đề cử cho Giải thưởng Pulitzer. Ông cũng đã nhận được nhiều giải thưởng văn chương uy tín nhưng với ông, tình cảm của bạn đọc Việt Nam dành cho thơ ông là phần thưởng cao quý nhất. Mới đây, ông vừa xuất bản tập thơ và hồi ký “Sau mưa thôi nã đạn”, song ngữ Anh - Việt (12.2010) Ông vừa có một hành trình trở lại Việt Nam từ 10/12 đến 20/12, với người bạn đồng hành là nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai. Ngày 15/12, Bruce và Nguyễn Phan Quế Mai đã có một buổi gặp mặt anh em văn nghệ sỹ Huế tại Tạp chí Sông Hương. Cuộc gặp đã diễn ra rất cảm động, với nhiều bài thơ được đọc cho nhau nghe. Sông Hương xin giới thiệu một số bài thơ do chính Bruce đọc trong hôm giao lưu ấy, qua phần chuyển ngữ của Nguyễn Phan Quế Mai. S.H
BRUCE WEIGL Bài hát bom Na-pan (Tặng vợ tôi) Sau cơn bão, sau cơn mưa thôi ào ạt chúng mình đứng ở cửa nhìn đàn ngựa thong thả trên đồi cỏ Qua tấm rèm đen, tầm nhìn bị khoảng cách thay đổi vì thế dường như anh thấy màn sương vó ngựa khuấy lên khi chúng chìm dần như những con ngựa bị cắt rời khỏi thân thể chúng ta Cỏ chưa bao giờ xanh màu da trời như trong ánh sáng đó cỏ cũng chưa bao giờ tím đến thế Đằng sau thảm cỏ, cây cối đập vụn giọng nói của chúng vào gió Những cành cây đan chằng chịt vào bầu trời dây kẽm gai Nhưng em nói chúng chỉ là những cành cây Ừ, cũng được. Cơn bão đã thôi dồn dập Anh đang cố gắng nói ra sự thật đó là lần duy nhất lý trí tạm dừng và lấy lại hơi thở sau những kế hoạch điên rồ của chính mình Sau trận mưa to đó anh đã quay lưng lại với những lời nguyền cũ Anh tin rằng những lời nguyền cuối cùng rồi cũng buông tha anh… Nhưng những cành cây vẫn là dây kẽm gai Tiếng sấm vẫn là tiếng súng cối nã đạn Cả bây giờ cả khi nhắm mắt Anh vẫn nhìn thấy bé gái chạy ra từ ngôi làng bom na-pan dính chặt cô vào máu đôi bàn tay cô với ra phía trước nhưng không ai đón cô trong biển lửa trước mặt Anh có thể cứ tiếp tục sống Anh có thể cứ ở đây bên em Nhưng trong tâm trí anh, bé gái vẫn chạy trên đường Đôi cánh đập trong cô đến khi cô bay lên trên cánh rừng khét lẹt Để nỗi đau của cô vơi đi cùng nỗi đau của em và anh Nhưng lời nói dối lại lao trở lại Lời nói dối chỉ có hiệu lực trong khoảnh khắc nó được thốt lên Cô bé chỉ có thể chạy tới khi bom na-pan cho phép cô Đến khi ruột gan cô cháy khét da thịt nứt nẻ tạc cô vào vị trí cuối cùng vị trí hoàn hảo của cái chết Cô bé bị đốt cháy sau võng mạc của anh Không gì có thể thay đổi được điều đó kể cả tình yêu dịu ngọt của em cả không khí mát lành sau mưa và cả rừng cỏ xanh đang trải trước mặt chúng ta Không điều gì có thể chối bỏ được sự thật đó. Lời thơ tặng Mẹ Nguyễn Thị Vẻ Viết thay cho Nguyễn Thị Hạnh Weigl Được sinh ra trong văn hoá lúa Hà Nam đầu tiên là đất thứ hai là nước thứ ba là những ngày dài còng lưng dưới mặt trời thứ tư là thóc giống như cuộc đời Mẹ đã bắt đầu dưới bầu trời vần vũ của chiến tranh Rồi Mẹ như cây mạ sẵn sàng cho số phận bứng lên từ mảnh ruộng Mẹ đã được gieo để lại được cấy xuống trong hàng hàng những người sống sót Mẹ vươn lên từ bùn, Mẹ vươn lên trong bão táp Dậy thì khi lúa trổ đòng bóng tối hậm hực muốn nhấn chìm vẻ đẹp Mẹ vẫn rì rào xanh mướt xanh tự do chảy qua những cánh đồng rễ bám đất cưu mang đòng nặng hạt Khi lúa chín, Mẹ hái gặt điều thiêng liêng nhất của đời mình bằng tiếng hát bằng yêu thương sâu thẳm trong tim bằng nước mắt, tiếng cười ngày làm mẹ Nhưng - số phận chia lìa hai ngả Mẹ lặng lẽ gặt mình thành gốc rạ cô liêu trên đồng trống tái màu Giờ đây Mẹ trở về thóc giống để chúng con cùng nâng niu, cất giữ, gieo trồng để những hạt-gạo-Mẹ chúng con ăn vào cơ thể lại trổ đòng lại xanh mướt xanh. Kỷ niệm ngày được tha thứ Mưa và mây thấp thổi qua thung lũng Mưa xuống bờ biển, dâng lên những con sông đen kịt Thủy triều cao, mực nước quá cao Sông và bầu trời đen vì chúng ta đã đến Không tuyệt vời cũng không công bằng tôi thức dậy từ đêm trăn trở mơ về nàng người tôi chẳng bao giờ có nữa cùng mỗi giây phút trôi qua hạnh phúc mong manh rời xa chỉ còn thoang thoảng một nụ hôn trong trí tưởng nụ hôn ước ao về lại, hôn lên mặt tôi Chiến tranh đã ăn ruỗng tôi tôi không thể chạm vào ai được nữa Ngọn gió thổi xuyên qua tôi đến nơi xanh thẳm nơi họ vẫn ngã xuống trong biển máu Tôi vẫn nghe tiếng họ, đêm đêm tôi không thể trút bỏ quần áo trong ánh sáng Tôi có thể giữ những con rồng ngoài cửa Tôi có thể vẽ lên mặt và trốn như cái bóng trong rừng rậm ba tầng Tôi không thể ăn hoặc ngủ rồi đi bộ cả ngày và cả đêm canh chừng con đường trăng sáng Tôi có thể dứt những con vắt khỏi da mình với đầu điếu thuốc lá đào một cái huyệt đủ sâu tự cứu mình trước khi mặt trời trút máu xuống những quả đồi Cho đến khi chúng ta không thể chịu đựng được nữa bằng chính cuộc sống chúng ta Nhưng trong đêm đầu tiên tôi được thứ tha Tôi không thể mở vòng tay đón nàng Tôi không thể chạm vào ai khác vì ý nghĩ thân thể tôi sẽ bốc cháy. (263/01-11) |
THÁI KIM LAN
KINHIN* im Frühling
(*Das Gehen in Achsamkeit und Bewußtheit)
EVGHÊNI EVTUSENKÔ
Tưởng niệm Anđrây Đimitiêvich Xakharôv
LTS: Ca khúc “Thời gian đang chuyển mình” được phát hành trong album cùng tên vào năm 1964. Dylan viết ca khúc này nhằm phản ánh những sự biến đổi của thời cuộc.
Thi sĩ Christopher Merrill được giới phê bình văn chương Mỹ trân trọng, như W.S. Merwin đánh giá, là “một trong những nhà thơ tài năng, táo bạo, và thành công nhất của một thế hệ thi ca hiện đại.”
Nhà thơ Müesser Yeniay, sinh năm 1984, tại Izmir - Thổ Nhĩ Kỳ. Chị tốt nghiệp Đại học Ege môn Anh ngữ và Văn học, nhận bằng Tiến sĩ Văn học Thổ Nhĩ Kỳ tại Đại học Bilkent. Chị từng đoạt một số giải thưởng Văn học tại Thổ Nhĩ Kỳ. Thơ Müesser Yeniay đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Müesser Yeniay hiện là biên tập viên Tạp chí Văn học Şiirden, Thổ Nhĩ Kỳ.
Jan Skacel (1922 - 1989) là một trong số những nhà thơ chủ chốt trong văn học Séc nửa sau thế kỷ 20. Ông cũng là nhân vật có vai trò quan trọng trong đời sống văn học Tiệp Khắc với tư cách là Tổng Biên tập tạp chí Host do domu trong các năm từ 1963 đến 1969.
LTS: Khi Sông Hương gửi những dòng thơ này đến với bạn đọc thì Paris đã yên bình sau cơn ác mộng khủng bố IS. Nhân loại đang đứng bên người Pháp: “Je suis Paris! Tôi là Paris! Nhân loại là Paris!” Lá cờ nước Pháp nhung phủ hàng triệu gương mặt người. Và những bài thơ dành cho Paris đã ngân lên, đơn giản, đó là biểu tượng xứ sở nghệ thuật của thế giới, là nơi Cách mạng Pháp với Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền đã mở ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới cho nhân loại…
Buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, bạn làm gì?
LTS: "Maiacôpxki là lá cờ đầu của thơ ca tháng Mười. Và làm thơ ca ngợi cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, ông luôn luôn đặt ra những câu hỏi lớn về viễn cảnh của cuộc cách mạng, về tương lai của nhân loại.
LGT: Nhà thơ Charles Simic sinh vào ngày 9/5/1938 tại Nam Tư, nơi ông có một tuổi thơ đau thương trong chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1954, ông theo gia đình di cư sang Mỹ.
JOSEPH BRODSKY
LTS: Sinh năm 1940 tại Peterbuorg. Năm 1970, ông sang định cư ở Mỹ và dạy học tại Đại học Columbia. Ông làm thơ bằng tiếng Nga và tiếng Anh. Năm 1987 ông đoạt giải Nobel văn chương.
Những bài thơ Sông Hương chọn giới thiệu được trích trong tập “Tĩnh vật và những bài thơ khác” từ bản dịch của Hoàng Ngọc Biên.
Billy Collins (sinh ngày 22/3/1941) là thi sĩ nổi tiếng ở Mỹ. Ông đã từng hai lần được bầu là Thi bá, hay còn gọi là Nhà thơ danh dự (Poet Laureate) của Hoa Kỳ, lần đầu vào năm 2001 và lần thứ hai vào năm 2003. Trong các năm từ 2004 đến 2006 ông được bầu là Thi sĩ của bang New York.
LGT: Nakahara Chuya (Trung Nguyên Trung Dã) (1907-1937) là một gương mặt chói ngời của văn học Nhật Bản cận đại dù mất ở tuổi ba mươi và chỉ kịp để lại hai thi tập “Bài ca sơn dương” (Yagi no uta) và “Bài ca ngày tháng cũ” (Arishihi no uta).
EVGHÊNHI EVTUSENKÔ
A. VÔZNHÊXENXKI
LTS: Ngày 18-2-1987, phiên họp của Ban thư ký Hội nhà văn Liên Xô đã hủy bỏ quyết định năm 1958 khai trừ nhà thơ, nhà văn Xô-viết Bôrít Pasternak ra khỏi Hội nhà văn.
Liana Margescu sinh ngày 7/5/1969 tại Campulung Muscel, ở Romania trong một thị trấn nhỏ miền núi. Vì là đứa con duy nhất nên người cha còn hơn là hình tượng một người cha đã đóng một vai trò thiết yếu trong sự trưởng thành của con gái. Một người cha dạy những giá trị đích thực của đời sống, như là tình bằng hữu, tự do, sự thật, ngay cả khi Romania nằm dưới sự kiểm soát của chế độ chuyên chế Ceausescu. Tác giả đã nhận được giải thưởng ở Italia.
Jaroslav Seifert - Frana Sramek - Miroslav Kapek - Michal Cernik
Gwendolyn Elizabeth Brooks (1917 - 2000), là nhà thơ Hoa Kỳ gốc châu Phi. Bà từng có thơ đăng tạp chí từ năm 13 tuổi. Năm 1950 bà được giải Pulitzer về thơ, và như thế là người da đen đầu tiên ở Hoa Kỳ có vinh dự này.
A.X.PUSKIN
Khúc ca về Ô leg minh quân