Vũ điệu - tranh lụa của Phạm Đăng Trí
Đó đây thấp thoáng những người lính đứng bất động cạnh những chao đèn rực lên ở các vòm trụ chính. Và những bóng đèn dẫn đường tù mù trong những hộp gương vuông vức đỏ lòm trông xa như những hộp huyết đọng. Sương xuống mỗi lúc một nhiều hơn, báo hiệu bằng những ngọn lá sứ xanh ngắt và thô cứng ban ngày kia - giờ trở nên mềm mại ửng nước lấp lánh từng mảng mặt của chị Hằng. Cái nóng bức ban ngày như dồn nén lại, tích tụ hết trong những đám mây kia - để cho bầu trời bao la giờ nầy chỉ có chị Hằng đầy đặn xinh tươi mơn mởn e ấp hiện ra trong những khoang cành đại sứ, trắc bá diệp, tùng bách, ngọc lan hương… Ở đằng kia thì chị Hằng kênh kiệu treo giá ngọc trên lầu ngũ phụng… ở chỗ nọ chị lại trải mình trên nội cỏ như đùa dỡn với châu chấu dế mèn. Bỗng người lính canh nhận thấy có sự chuyển động từ con đường nhỏ phía trái nhà tả vu, làm cho ánh trăng ở đấy sóng sánh chao đảo và toan vỡ vụn. Anh mở to mắt nhìn kỹ, và nhận ra một bóng người gầy thó xương xẩu mong manh trong chiếc áo lụa bạch vừa tách con đường nhỏ di chuyển chậm chạp về phía anh. Đó là người thợ đá già nua đã dành trọn cuộc đời mình để xây dựng và tu sửa các công trình kiến trúc của triều đình. Đến nay ông được lưu giữ lại trong hoàng cung do ân sủng của đức chúa thượng để vừa tiếp tục làm nhiệm vụ tu sửa các công trình, vừa truyền nghề cho các thợ đá trẻ. Càng đến gần chỗ anh, ông càng di chuyển chậm, đến nỗi, tưởng như cái bóng trắng mong manh ấy vẽ thành một vệt cố định trong không gian. Và, cuối cùng cái vật trắng ấy đã xích lại gần anh. - Kính chào bác thợ. Mấy hôm nay đêm nào cháu cũng thấy bác ra đây. Chẳng hay khu vực nầy có phiến đá nào bị hư hỏng không ạ? - Giỏi thay, chú tinh mắt đó. Đúng mấy hôm rày cũng như có một dạo, một tuần trăng nào đó, lão thường ghé qua đây thăm những phiến đá của mình. Chả là ngày xưa công trình nầy hoàn thành và khánh thành vào một tuần trăng. Đêm hôm đó, đức tiên đế truyền lệnh treo đèn kết hoa đợi lúc trăng lên đẹp nhất mới khánh thành. Còn hai tượng đá kia cũng bởi vì trăng nên mới đứng vì nhau hằng bao năm nay và sẽ còn đứng hoài hàng bao thế kỷ. Người lính canh không giấu ngạc nhiên: - Bác bảo hai tượng đá nào kia? Có phải hai phiến đá đặt cạnh nhau, một cao vút lên bề thế lẫm liệt, một nhỏ nhắn tựa kề bên tảng kia - trông như đôi bờ vai thon của cô thiếu nữ đẹp? - Đúng. Người thợ già run giọng đáp - kia là chàng trẻ tuổi khỏe mạnh tài hoa, nọ là cô thiếu nữ xinh đẹp dịu dàng. Chuyện rằng ngày xưa ở làng Phú Xuân có chàng trẻ tuổi làm nghề thợ đá. Cha chàng là một bậc tài danh về nghề đá đã sớm truyền cho chàng những ngón nghề tinh xảo trong kỹ thuật ghép đá và chạm trổ trên đá. Đến tuổi trưởng thành, chàng gặp và yêu cô gái dệt lụa tuyệt đẹp bên làng Kim Long. Đôi trẻ gặp gỡ và yêu nhau như trăng mới hé như đèn mới khêu. Đang lúc đôi bên cha mẹ đợi ngày lành tháng tốt để làm lễ cưới cho con, thì một hôm tình cờ đức tiên đế ngự giá qua, thấy được tấm nhan sắc của nàng liền cho vời vào cung. Từ đó chàng trai đau đớn buồn khổ mỏi mòn. Ít lâu sau, chàng được cho gọi theo cha sung vào đội thợ đá của triều đình, cố nuôi một hy vọng mong manh rằng làm việc trong hoàng cung may ra có dịp tìm gặp người yêu. Nhưng ngày lại ngày trôi qua, thu sang đông lại xuân về. Số phận đã định đoạt, chàng thợ đá khó có hy vọng được trộm ngắm dung nhan của quý phi. Nàng thì như bóng chim tăm cá, mà chàng thì chẳng dám hé lời cùng ai. Một hôm, cha chàng dẫn về nhà một thầy thuốc cho hay rằng từ ngày đưa vào cung, nàng ốm đau võ vàng tàn tạ nhan sắc. Bao danh y được mời đến đều bó tay. Bệnh tình ngày càng nguy kịch. Bản thân vị thầy thuốc tài giỏi nầy cũng chỉ biết cắn cỏ kêu trời lang thang lên rừng xuống bể không biết kiếm thứ thuốc gì hơn nữa để cứu chữa cho thứ phi… Nghe đến đây chàng trai cúi sụp lạy tạ vị lương y và lạy tạ cha già. Từ đó, người thầy thuốc này trở thành manh mối của chàng. Dù rằng bản thân ông cũng chẳng được tự do gì trong khám chữa bệnh cho thứ phi. Ông chỉ tiếp xúc chẩn bệnh cho thứ phi qua một bàn tay của bà từ bên kia bức rèm chìa ra đặt trên đệm gấm - ở đó có sẵn hai thị nữ và mấy thị vệ xếp hàng hai để phục dịch và bảo vệ. Khó khăn làm vậy, nhưng với tấm lòng trời biển của lương y, ông đã tìm đủ mọi cách giúp nàng liên lạc với người yêu. Bệnh tình nàng thuyên giảm dần. Từ đó thỉnh thoảng nàng kêu mệt và cần một cuộc dạo chơi ngắm phong cảnh. Những dịp ấy chàng trai thường nép sẵn ở đấy chực để được nhìn thấy nàng. Nhưng không phải lần nào những cuộc trộm ngắm dung nhan người thương cũng xảy ra dễ dàng thuận lợi. Một hôm, chàng trai được tin thứ phi sẽ theo tiên đế và Hoàng quí phi xa giá ngự ở Tĩnh Tâm hồ, chàng bố trí chỗ thuận lợi nhất để được nhìn thấy xe nàng đi qua. Nhưng đến phút chót, kế hoạch lại thay đổi: đức tiên đế ngự ở một địa điểm khác! Một lần theo hẹn, nàng sẽ đi dạo chơi với hai thị nữ tại một địa điểm trong Nội. Nhưng cuộc hẹn không thành!... Một đêm, chàng trẻ tuổi phủ phục dưới chân cha tiết lộ kế hoạch chàng sẽ cùng với người yêu trốn đi đến nơi cùng trời cuối đất. Cha mẹ nàng đã chết từ một năm trước đó, nàng không còn ai thân thích để có thể chịu vạ lây - Hơn nữa, cuộc ra đi nầy lại được ngụy trang dưới một cái chết giả của nàng. Như vậy, về phía nàng nếu có bề nào chăng nữa cũng chẳng có gì để mà liên lụy về sau. Nhưng còn về phía chàng, nếu sự việc không trót lọt mà lại đổ vỡ ra thì ắt cha chàng sẽ là người đầu tiên hứng chịu mọi hậu quả. Nghe đến đây, người cha không cầm được nước mắt, ông vui mừng chúc con đạt được những dự định táo bạo và đầy nguy hiểm; còn ông, ông sẵn sàng chịu rơi đầu dưới lưỡi gươm trừng phạt của tiên đế, để cho con mình được hưởng hạnh phúc. Nhưng, rủi thay, chính cái đêm hẹn hò của đôi trai gái cũng là đêm đức tiên đế dừng chân bên trướng hoa của nàng. Đó là lần đầu tiên nàng được vua đoái tưởng đến kể từ ngày vào cung. Tại điểm hẹn, chàng trai đợi nàng mãi không thấy, không biết lý do vì sao. Hôm sau chàng lại ra chỗ hẹn, lại hôm sau và hôm sau nữa… Tin tức về nàng vẫn biền biệt. Sau đó chàng bị cảm hàn, cảng nặng và chết. Lại nói về đức tiên đế, sau đêm đầu tiên ân ái với thứ phi, cảm vì sắc, trọng vì nết, toan giữ nàng luôn bên mình, làm cho Hoàng quí phi cũng đâm ra sinh lòng ghen ghét. Khi được tin người yêu chết, nàng cải trang làm một cô thôn nữ đến bên mộ chàng khóc than thảm thiết, khóc đến cạn nguồn nước mắt và gục chết tại đó luôn. Người cha đau buồn thương tiếc hai con, bèn chọn đá để dựng lên biểu tượng kia, nhân lúc trang trí khuôn viên đại nội - chàng hóa đá vì nàng, và nàng quỳ xuống bên để tạ lỗi. Họ đã hòa nhập vào nhau thành một thể. Người cha đặt tượng ngay bên hồ Thái Dịch là một địa điểm mà lúc sinh thời chẳng bao giờ họ dám mơ ước được chọn làm nơi để được nhìn thấy nhau! Dưới bàn tay của người thợ đá lành nghề, và với tấm lòng của người cha, ước mơ này được thực hiện một cách âm thầm và táo bạo. Điều đó từ bấy đến nay chưa một ai được biết! - Đã muộn lắm rồi, trời sắp sáng, tôi sắp đổi phiên gác. Xin cảm ơn bác đã kể cho nghe câu chuyện hay. Nhưng làm sao bí mật về tượng đá kia bác lại nắm được. Ông lão vuốt đôi chòm râu bạc trắng như cước, đôi mắt mệt mỏi hấp háy, giọng run: - Có gì lạ đâu, vì chính lão là cha đẻ của chàng trai bất hạnh kia. Thằng Thạch!... chuyện xảy ra còn mới tinh nguyên. Thế sự cũng đã lắm đổi đời trong mấy chục năm qua, riêng đá vẫn trơ với đất trời non nước. Người lính hốt hoảng: - Nhưng làm sao hôm nay bác lại nói những sự việc ấy ra đây? Bác không sợ sao? Người lính nói và đảo đôi mắt một lượt quanh khu vực. Bác thợ già vẻ ung dung: - Ồ… lão đã già rồi! Với lại có vầng trăng kia làm chứng như đã từng làm chứng cho mối tình của con trai và con dâu lão. Lão thương con lão thì đâu có tội tình chi. Hỡi con trai yêu quí và con dâu thủy chung trinh bạch! Tình yêu của các con sẽ sống mãi trong những đôi lứa yêu nhau. Con cháu ngàn đời sau ai đã yêu đã một lần dẫn đến đây tình tự, tình yêu ấy sẽ mãi mãi bền chặt. Họ sẽ ngồi cạnh nhau ngắm trăng, ngắm cảnh lâu đài đền miếu hoàng thành và hương sen hương sứ lan vào, hòa tan trong tình yêu của họ… một lần nữa người lính canh hoảng hốt cắt ngang lời bác thợ: - Ô kìa! Bác thợ! Bác thợ! Bác điên rồi chăng? Đây đâu phải chỗ đường sá chợ búa! Đây chốn uy nghiêm sao bác lại dám kể ra những điều nhởn nhơ dân dã ấy? - Ha ha hả… ha ha hả… bác thợ cười dài đến sặc sụa. Người lính canh nhấc kiếm lên và tay kia rút mã tấu ra khỏi đai lưng theo một thói quen phản ứng bảo vệ. Ông lão vẫn cứ cười. Tiếng cười như thủy tinh vỡ dồn dập dội vào không gian lặng yên và mang màu trắng đục như sữa loãng. - Kìa, bác điên rồi chăng?! Xin mời bác đi ngay cho!... Bỗng một phát đạn nổ dòn từ xa cắt ngang lời người lính lẫn trong tiếng cười của bác thợ. Những tiếng reo hò vọng lại mỗi lúc một gần với tiếng chân rầm rập tiến về phía Ngọ Môn. - Đã muộn rồi con!... Bác thợ già ngửa mặt lên không nói - người lính không biết bác nói với con trai bác hay nói với anh - lịch sử không lặp lại mà thiên nhiên thì theo chu kỳ. Cứ ba mươi tám năm lại có một đêm rằm tháng bảy trăng sáng như thế này. Ngày xưa con trai ta gục bên cành đại sứ đêm mồng mười tháng bảy - Lão xin lặp lại: vòm sứ mặt hồ vầng trăng này từ nay không của riêng ai!... Những cánh cổng Ngọ Môn rung lên theo nhịp trống dậy. Trời vừa sáng. Người lính canh không có ai đến đổi gác. 8-1983 H.K.L (5/2-84) |
Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.
Gió từ đại dương lồng lộng thổi qua cửa sông, qua bãi cát trắng xoá rồi vỗ đập vào những tàu lá dài ngoằng của loài dừa nước, oà vỡ những thanh âm xạc xào.
Đúng sáu năm tôi không trở lại thành phố ấy dẫu rằng trong lòng tôi luôn luôn có một nỗi ham muốn trở lại, dù trong sáu năm tôi giấu kín trong lòng mình điều đó, chôn thật sâu trong suy nghĩ của mình, chẳng hề nói ra.
Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.
Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.
Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.
Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.
1Sau lần đi gặt thuê cho đồng bào dân tộc ở Vĩnh Thạnh về, tôi bị trận sốt rét nặng. Dai dẳng trở đi trở lại gần ba tháng mới khỏi. Những ngày sau đó, trong người thấy cứ nôn nao, bứt rứt.
Có thể cô gái ấy đã trồi lên từ thủy cung do thủy triều xuống quá nhanh. Một nửa thân hình của cô từ dưới eo trở lên, hoàn toàn khỏa thân nhô ra khỏi mặt nước.
Mặt trời như còn ngái ngủ. Cùng với cánh cò trắng từ đâu bay về sáng nay, tôi bần thần chờ đợi một điều gì đó. Nó mong manh và đằm thắm theo về với cơn gió lạnh. Như mặt trời vẫn thập thò, như đường về mệt mỏi, như hàng cây đìu hiu. Vừa gần gũi tưởng có thể ôm giữ được mà cũng vừa cách xa vời vợi.
Hôm qua nghe đài, có một cái tên giống hệt người thân của mình đã mất tích trong chiến tranh. Rồi một tên khác, kế tiếp một tên khác với hòm thư toàn những chữ số. Hai anh em tôi nhìn nhau. Đã biết bao lần anh em tôi nhìn nhau như vậy. Từ khi con bé thiên thần kia còn chưa biết khóc vì buồn.
ITiệc có vẻ sắp tàn. Nàng đứng lặng lẽ gần cửa ra vào đưa mắt bao quát căn phòng rộng. Đèn chùm sáng trắng. Nhạc êm dịu trong phòng hôn lễ đã giúp nàng tự tin hơn khi bước chân vào có một mình với bộ đồ xoàng xĩnh đang mặc.
Bây giờ thì Hồng sắp được gặp chị. Người chị mà suốt những năm tháng đi xa, ở đâu Hồng vẫn luôn nghĩ tới. Cứ mỗi lần như thế, một tình cảm thân thương choán ngập tâm hồn Hồng.
- Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rồ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.
Bác Hai đang ngồi trước mặt tôi, lặng im như pho tượng. Đôi mắt bác đăm đăm không chớp, nhìn về một cõi xa xăm mà tôi đoán chừng là ở nơi ấy chắc chắn có những kỷ niệm vui buồn về người em trai của bác, chính là cha tôi.
Cuối năm, Đài truyền hình liên tục thông báo gió mùa đông bắc tràn về, miền Tây Bắc nhiệt độ 00C, khu vực Hà Nội 70C...
Tôi tạm xa Hà Nội một tuần. Cũng chẳng biết là phải xa hay được xa nữa. Bố mẹ phái: - Cho con Hạ đi ăn giỗ!
Tặng anh Hữu Ngọc, anh Đoàn, Lành - Ngọc Anh. Tưởng nhớ chị TâmHảo không có giấy mời. Có thể những người bạn cũ của anh ở Huế cũng đã nghỉ hưu cả rồi, hoặc giả họ bận trăm công ngàn việc nên cũng chẳng nhớ anh ở đâu mà tìm... Song điều ấy không quan trọng.
Chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc, nhận tấm thẻ thương binh, tôi trở về quê nhà. Để bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình, tôi dã dành tất cả số tiền chính sách nhận được mở một quầy sách báo. Khách hàng của tôi khá đông.
Ông Biểu đột ngột nằm xuống. Tưởng như mọi cái đâu vào đấy. Như linh cảm trước, cuối năm con hổ, ông Biểu đã sắm cỗ áo quan dạ hương thơm nức. Xe cộ cần bao nhiêu chẳng có. Mọi thứ nếu muốn, chỉ sau một tiếng “alô” là tha hồ.