Trần Thiên Thị - Kẻ ngược đường đi đến

09:50 14/02/2017

VŨ TRỌNG QUANG

Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:

Nhà thơ Trần Thiên Thị

Tê điếng:

Thịt da tôi sượng sần và tê điếng.
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên

            (Hồn là ai, Hàn Mặc Tử).

Tê tái:

Chiều sơn cước lạnh hồn tê tái
Con nhện đau hoài sợi nhớ thương

            (Hoài Hương, Đất Thăng Long).

Tê người:

Chỉ còn em còn em im lặng đến tê người
            (Im lặng đêm Hà Nội, thơ Phạm Thị Ngọc Liên, nhạc Phú Quang).

Tiên tri cho Thị “tê điếng tê tái tê người, Thị mang tê dại tê đời Trần Thiên?”

Trần Thiên Thị với ba chữ TTT làm tôi nghĩ đến Thanh Tâm Tuyền, một người mở rộng rực rỡ Thơ Tự Do, có thể xem như “soái ca” trong thể loại nầy. Tôi bị ám ảnh những câu thơ của ông thời trai trẻ:

Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van


Thì Thị có:

em đã người yêu trong vòng tay không còn ôm được chặt

Hoặc câu thơ khác của Thanh Tâm Tuyền mà tôi vẫn thường đọc cho bạn bè nghe:

Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá


Cần gì vứt điếu thuốc xuống sông để bị tắt ngấm cuốn trôi; điếu thuốc đã đốt, không hút cũng tự cháy hết.

Một con người “ngầu” như Trần Thiên Thị thường trực tay thuốc:

nửa đêm nhặt được điếu thuốc cuối cùng trong bao thuốc lá cũ

Thơ Thanh Tâm Tuyền & Trần Thiên Thị có vài chữ giống nhau, không thể nói người đi sau sao chép người đi trước, ngôn ngữ mỗi người có dấu ấn riêng tư (không dám nói tư tưởng lớn gặp nhau, nghe ghê quá), hai tâm trạng ba động biệt lập.

Nay Trần Thiên Thị đưa tự do vào Nơi Đám Mây Đã Chết bằng con đường chủ yếu Thơ Tự Do, giấy mời mở cửa tự trong tâm cảm, tự do đến tự nhiên như lời nói hay một cách tương cận: lời nói như thơ; Thị có thể bơ vơ nhưng hoang mang không trên hành trình đi tới; đi tới bằng con đường ngược bất định:

tôi muốn ra đi khi người ta trở về
chỉ có ngược đường


Dũng cảm hơn:

những cuộc chiến bây giờ không chờ đợi gió mùa
người ta vẫn có thể đi ngược về phía bão


Hoặc tung hoành “dọc ngang nào biết trên trời có ai” (Từ Hải).

đi ngang đi dọc mùa đông
ngược đường những cánh chim di trú


Hành trình đi tới là hành trình ngược hay nói đúng hơn đi tới bằng cách ngược lại (không phải đi ngược bảng cấm sẽ bị công an thổi còi), lấy chiều dài số âm mặc định số dương.

Con ngựa truy phong Trần Thiên Thị khởi hành nhắm đích chân trời, tìm gì không có gì, nơi ở cuối chân trời, đi đến chỗ phải đi chỉ có chữ “i” vô vọng vô cực; biết vậy nhưng vẫn lao tới không cho bịt mắt như xe ngựa thồ cam chịu trên con đường định sẵn; băng băng qua phản biện độc thoại băng băng qua hiện hữu hiện thực chỉ định.

viết được dăm câu buồn như ngựa
truông dài mỏi vó đứng hí khan


Đứng hí khan, đứng lại chứ không dừng lại, hành trình phóng về phía trước.

ngày cuồng miệng hát lời ngựa chứng
vai người xin gởi cái tử sinh

Cái tử cái sinh cái đợi cái chờ
con ngựa hôm nào bên suối
vẫn nhẫn nha gặm cỏ đợi người

Vậy thì lên yên đi nữa
thôi thì cởi ngựa qua truông
mà nghe tiếng nhạc lúc gần lúc xa


Xuyên qua Thơ tự do là những dòng lục bát; diện kiến cái bên ngoài thô ráp sần sùi pha dáng vẻ giang hồ của một kỹ sư cơ khí lại chứa bên trong một kỹ sư tâm hồn mềm mại thơ mộng lãng mạn; lục bát của tác giả không bi lụy không sướt mướt, không ngôn tình diễm lệ (diễm lệ coi chừng dễ liệm). Công lực của thơ nắm ở câu tám chữ, câu sáu chữ chỉ khơi gợi gieo mở.

nhớ gì mà nhớ ngẩn ngơ
vết cào hôm trước nằm chờ bàn tay


So với ông vua lục bát Nguyễn Du, người đã đưa thân phận nàng Kiều qua hơn 3000 câu lục bát, cuối cùng tuyên ngôn không tuyên ngôn một câu xanh rờn rất vô vi: Mua vui cũng được một vài trống canh.

Thị cũng chơi thôi, chơi miết thôi:

châu thân nhìn dọc đã sang xuân rồi
thì chơi cho hết cuộc chơi


Ồ trà mi trà mi da diết:

một trà mi nở nở rất hồng
một con ong một mộ phần thiếu hương


Một trà mi khác của Nguyễn Du:

Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về


Trà mi trong Đoạn Trường Tân Thanh bị bướm ong vùi hoa dập liễu, hình ảnh trà mi của Trần Thiên Thị nói chung thì bùi ngùi, nói riêng thì bùi ngùi hơn, đã để lại con ong cô độc tiếc nuối mùi hương.

Cả hai đều không như tiếng kêu trập trùng trong Cung Oán Ngâm Khúc:

Cái đêm hôm ấy đêm gì
Bóng dương lồng bóng trà mi trập trùng


Cái đêm hôm ấy xa xưa quy chiếu vào thì hiện tại thành âm thanh cuồng nộ.

Trần Thiên Thị còn nhiều trà mi, có phải ở Quảng Nam huyện Trà Mi có một bông hoa thật đã ám ảnh khiến chàng si tình:

tầm hương trên đóa trà mi
con ong mõn sức cũng vì mùa xuân

&

và đôi môi trà mi
hớ hênh vẫy như ngàn cánh lá


Rồi rong chơi đi tiếp:

đa ngăn dăm cuộc rong chơi
mượn thiên hà xứ lắm nơi ăn nằm


Lại nhớ đến Nguyễn Đức Sơn bạt mạng:

Mẹ cha ngàn kiếp nào ngờ
Đời cha mạnh giỏi cũng nhờ rong chơi


Trần Thiên Thị còn một số bài lục bát mượt mà khác, vật liệu ngôn ngữ có góc khuất đằm thắm không khô cứng lồ lộ như vật liệu xây dựng; đôi chỗ tác giả lụy vần, tôi cũng vậy, càng thao tác kỹ thuật lục bát tôi càng lụy vần, có thể làm tôi giảm ý và cảm xúc.

cầm tay nay đã thành chai
mới hay vết sẹo đã vài trăm năm


Vần vài lụy vần chai, chứ vài trăm năm thời gian dài lắm, có thể lên đến ngàn năm, khi ấy vết sẹo không còn.


uổng công mấy kiếp nghe kinh
cứ xuân lại cứ thất tình một ta
……


Bài thơ Tổ Sư Cái Tháng Châp Sầu là bài phản tỉnh cái sầu hiện thực dữ dội.

Bạn ta ơi hãy dứt khoát nhổ đi cái răng sâu, phục sinh sự đau nhức âm ỉ ấy làm gì, chỉ còn khoảng trống; hãy để lại giữa ánh sáng và bóng tối, ấy là thơ.

Đi tiếp đi đến chỗ đường đi không đến.

Cần thiết an táng tro than Nơi Đám Mây Đã Chết trên không trung, hôn phối tiếp tục giữa bầu trời và mặt đất sẽ sản sinh ra Đám Mây khác, đám mây mãi trên đường bay.

V.T.Q  
(SHSDB23/12-2016)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)

  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.