Tổng thống xứ mơ

15:44 31/07/2008
ENYO IOGY TESHANSKY ()(Truyện cổ - có thể cho cả người lớn đọc)Mơ thường trái hẳn với thực, chẳng phải vậy sao? Trong mơ những mong ước thiêng liêng nhất của chúng ta đều được thực hiện. Khi ta mơ thấy được vàng ấy là khi trong đời ta không một xu dính túi. Nói gọn lại, tương tự như ví dụ này, bạn có thể dễ dàng hình dung tình hình chính trị và xã hội của Xứ Mơ là thế nào.

 Tôi chỉ xin nói một điều: ở Xứ Mơ người công dân mẫu mực nhất hoàn toàn không phải là người làm lụng nhiều hơn những người khác, luôn luôn tất bật vội vàng, mà là người lười hơn những người khác, suốt ngày chỉ nằm ườn trên đi-văng ở nhà mình. Vì thế dễ hiểu là người đứng đầu nhà nước Xứ Mơ được bầu không phải là người chăm làm nhất, mà là người vô công rồi nghề nhất.
 Trong đời thực tất nhiên bạn biết ai là người cứ tìm cách lẩn tránh liềm búa hơn những người khác. Nhưng vốn dĩ có những người lại coi cái việc nằm dài trên đi-văng và mơ giữa ban ngày gần như là một thứ nghề. Đó là ai vậy, bạn sẽ hỏi. "Ai" là thế nào? Các nhà thơ.
 Thế là ta đã đến được bản chất rồi đấy: người đứng đầu nhà nước Xứ Mơ, một nhà nước sung sướng nhất, giàu có nhất, tự do nhất trên thế giới, là một nhà thơ.
 Xứ Mơ lẽ dĩ nhiên là xứ cộng hòa. Ở đấy chủ và tớ, giàu và nghèo, lớn và nhỏ, mạnh và yếu thật sự ngang hàng nhau. Và chỉ nhờ trí tuệ siêu việt thì đệ nhất nhân của nước cộng hòa, vị tổng thống của nó, nhà thơ vĩ đại nhất Xứ Mơ được bầu hàng năm theo lối vỗ tay mới nổi bật lên giữa các công dân khác.
 Bởi ở Xứ Mơ, giống như trong đời thực, có nhiều, rất nhiều nhà thơ. Và nhiều, rất nhiều nhà thơ vĩ đại nhất. Ở đây cũng vậy, dù nói về bất kỳ nhà thơ nào, giới phê bình đều buộc phải gọi người đó là "một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nước nhà". Vì vậy mỗi nhà thơ tương đối sạch nước cản một chút đều nhất quyết coi mình là vĩ đại. Không coi thế nói chung không thể thành nhà thơ được. Nhưng vì, như tôi đã nói, ở Xứ Mơ có nhiều nhà thơ vĩ đại nhất, nên ở đấy hàng năm người ta lại bầu tổng thống mới để mỗi nhà thơ vĩ đại nhất đều có thể đến lượt được làm.
           
 Vậy là vào cái thời đang nói đến trong truyện này, Xứ Mơ lại sinh ra rất nhiều nhà thơ. Hồi đó ở đấy có một nhà thơ trẻ tên là Ghergay Estever. Cố nhiên, anh ta cũng là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của đất nước mình và không thể nào đợi được đến cái giờ khắc, khi sau tất cả các đối thủ của mình anh ta cuối cùng chiếm được chiếc ghế tổng thống. Luôn luôn anh ta bị đánh trượt tại các cuộc bầu. Bao giờ người ta cũng kiếm được một cái cớ ngu ngốc nào đấy để loại anh ta ra, dù cho năm này qua năm khác anh ta có tận tâm đến đâu và thành thục đến đâu trong nghề ghép vần làm thơ.
 Rốt cuộc Ghergay Estever buộc phải thừa nhận bằng lao động trung thực anh ta không bao giờ đạt được cái gì cả. Và điều đó làm anh rất đau buồn.
 Cách thủ đô Xứ Mơ không xa có một cái vực sâu. Một hôm Ghergay Estever đội mũ, dáng vẻ đau khổ, đi đến cái vực ấy. Anh lần ra sát mép vực, cởi mũ vất xuống đất. Xong anh quay về lại thủ đô.
 Anh ta quay về thật. Nhưng ở đây có một điều quan trọng cần nhớ.
 Trước đó Ghergay Estever đã kiếm được ở một gã buôn quần áo vũ hội hóa trang một chiếc áo choàng tu rộng và một bộ râu giả dài nửa mét. Anh ta cuộn tròn chúng cắp nách, sau khi ném chiếc mũ xuống bờ vực anh ta mặc áo choàng và đeo râu vào. Xong xuôi anh ta quay lại thủ đô mà không ai nhận ra.
 "Ghergay Estever làm thế là có ý đồ gì?" - bạn chắc sẽ hỏi. Điều này không khó đoán ra. Anh ta muốn dự đám ma mình. Muốn biết anh ta nổi tiếng ở trong nước đến mức nào và còn chuyện khác nữa. Nhưng trước hết - nổi tiếng đến mức nào.
 Bởi vì đáng tiếc, cũng như trong đời thực, ở Xứ Mơ mọi người yêu người chết hơn người sống. Mộ của các nhà thơ chẳng hạn, bao giờ cũng được phủ đầy các vòng nguyệt quế và những lời đẹp đẽ mà sinh thời họ không bao giờ được nhận.
 Vậy là Ghergay Estever nảy ra kế hoạch táo bạo xóa bỏ sự bất công đó. Vâng, tôi quên nói là tại nhà mình Ghergay đã để lại trên bàn một mảnh giấy ghi dòng chữ:
 
"Tôi đã mệt mỏi vì cuộc sống. Xin đừng tìm tôi. Chúc hạnh phúc!".
 
 Ngày hôm sau, khi mảnh giấy này được phát hiện, sự biến mất bất ngờ và bi thảm của nhà thơ Ghergay Estever đã gây nên một cơn chấn động thực sự tại thủ đô Xứ Mơ.
 Sang ngày thứ ba lại một tin chấn động lớn nữa: người ta đã tổ chức tìm kiếm Ghergay Estever, nhưng không thấy xác anh ta đâu, mà chỉ thấy cái mũ của anh ta bên bờ vực.
 Tờ báo lớn nhất nước đưa tin về cái chết của anh ta thay cho bài xã luận. Một tờ báo lớn nhất nước khác cũng ở chỗ bài xã luận đã viết một cách xỏ xiên: dĩ nhiên, sinh thời trên những tờ báo chúng ta biết Ghergay Estever chỉ được nhắc đến trong các bài bình luận của ban biên tập, mà lại ở trong số các tác giả bị phê phán.
 Các biến cố đã diễn ra như vậy. Do không thể nào tìm được xác người quá cố dưới vực sâu nên người ta quyết định tổ chức tang lễ tượng trưng cho Ghergay Estever xấu số, một tang lễ tưng bừng và trang trọng. Nhà triệu phú thứ nhất trong nước không tiếc tiền mua một phiến đá thật đẹp làm mộ chí. Một nhà triệu phú thứ nhất khác trong nước thành lập quỹ “Đóng góp xây mộ chí Ghergay Estever” - quỹ này nhằm giúp đỡ cho những nhà thơ trẻ hăng say như Ghergay Estever.
 Có biết bao bài điếu văn, bao lời ca tụng đã được đọc trước mộ anh ta? Tôi chỉ xin nói rằng kẻ kình địch điên cuồng nhất của anh, đối thủ của anh, người trong số các nhà thơ vĩ đại nhất nước bao giờ cũng được nhắc tên ngay sau Ghergay, đã đọc một bài vĩnh biệt Estever nồng nàn nhất, thấm thía nhất. Kẻ ấy đã ném vào đất nước mình lời buộc tội: đứa con vĩ đại của đất nước đã giã từ cuộc sống bởi vì lẽ ra từ lâu anh ta đã phải được ngồi vào chiếc ghế tổng thống, thái độ coi thường việc đề cử anh ta như vậy khiến tôi hết sức đau buồn. Còn bây giờ? Chẳng lẽ trong nước ta còn có ai xứng đáng ở vào vị trí của anh ta?.. Cứ thế lời lẽ tuôn ra theo tinh thần đó. Ghergay Estever giờ đây không có khuyết điểm. Chỉ có ánh hào quang bao phủ diện mạo anh ta đã được khúc xạ qua ký ức tốt đẹp của những người cùng tổ quốc.
 Trong khi đó anh ta mặc chiếc áo choàng thầy tu đứng cạnh và cười thầm.
 Tất cả chuyện này diễn ra mấy ngày trước khi kết thúc nhiệm kỳ cầm quyền của vị tổng thống thường kỳ ở Xứ Mơ.
 Theo lệ thường, dân chúng Xứ Mơ họp nhau lại để bằng cách vỗ tay thể hiện ý chí của mình, gọi ra người họ muốn thấy đứng đầu nhà nước. Thủ tục rất đơn giản. Trên quảng trường lớn nhất thủ đô người ta dựng một cái bục to cho các ứng cử viên chức tổng thống, những nhà thơ ưu tú nhất trong tất cả các nhà thơ, bước lên. Dân chúng đứng xung quanh bục, ồn ào náo nhiệt. Mỗi nhà thơ khi đến lượt mình phải bước ra trình diện dân chúng, mọi công dân của nước cộng hòa muốn phản đối hay ủng hộ ứng cử viên đó đều có thể phát biểu ý kiến. Sau đó người ta lấy ưu điểm trừ đi khuyết điểm, người nào có kết quả tốt nhất sẽ trở thành tổng thống của nước cộng hoà.
 
Vậy là các nhà thơ lần lượt từng người một ra mắt dân chúng.
 Lẽ dĩ nhiên, không một ứng viên nào không bị dân chúng phản đối. Người thì bị bắt gặp chạy đến xem vụ xô xát trên phố. Người thì mới thức giấc đã nhảy bật ra khỏi giường - một việc không thể dung thứ được. Người thì bị coi là có tội xúi giục vội vã. Thật ra, bản thân anh ta không vội vã hấp tấp, nhưng lại xúi người khác. Thí dụ, xúi người thợ may phải may xong bộ quần áo cho mình đúng hạn. Trong số các nhà thơ lại có người ngoài tội xúi giục, còn bị tội hối lộ. Nghe đâu anh ta đã hứa cho thằng nhỏ bán báo mấy hào nếu nó mang báo chiều đến ngay tức thì. Người nữa càng tệ hơn vì mồm miệng như tép nhảy, nghe cứ tưởng người không bình thường. Thực thì lỗi của anh ta có hoàn cảnh giảm nhẹ - khuyết điểm đó là do bẩm sinh. Tóm lại là những lời buộc tội, buộc tội, buộc tội đến vô tận...
 Nhưng đó chưa phải là chuyện hay nhất. Chuyện hay nhất là cứ mỗi khi một ứng viên vào chiếc ghế tổng thống bước ra trình diện dân chúng và bị thất bại thì trong đám đông lại nghe vang lên giọng một ông già đáng kính có chòm râu dày rủ xuống tận thắt lưng khiến mọi người thấy kính nể.
 - Hỡi các người anh em, - giọng ông già vang rền, - bây giờ thì các anh thấy ứng viên này kém xa Ghergay Estever đến mức nào, người mà các anh đã không cứu được khỏi cái chết thảm khốc. Đấy là điều thường xảy ra khi mọi người đắp tai ngoảnh mặt đối với tài năng.
 - Nói đúng lắm! Đúng lắm! - Đám đông đáp lại vang dội, mỗi lần một to hơn, đồng thanh hơn.
 Nhưng vị thầy tu không dừng lại đó. Khi dân chúng sẵn lòng khen ngợi một ứng viên nào đó thì gần như đến phút chót ông già đáng kính lại tung ra đòn phủ quyết của mình: phẩm chất của ứng viên này nhỏ nhặt biết bao, những mưu toan nhàn thân của anh ta thảm hại biết bao so với sự yên tĩnh đời đời của người quá cố vĩ đại.
 Cứ thế cuộc bầu chọn còn lại vài người. Và rồi đến lượt người cuối cùng.
 Đó chính là kẻ kình địch của Ghergay Estever, người bao giờ cũng được nhắc tên cùng anh nhưng bao giờ cũng là nhắc sau. Lẽ dĩ nhiên, anh ta gần như tin chắc vào kết cục cuộc bầu chọn. Không thể có ứng viên nào tốt hơn cho chức tổng thống nữa, bởi anh ta là ứng viên cuối cùng, duy nhất.
 Nhưng đến đây trên quảng trường lại vang lên giọng nói của vị thầy tu có chòm râu dài bạc trắng.
 - Hỡi các người anh em yêu quý, chẳng lẽ các anh lại bầu vị tổng thống của mình là cái người mà sinh thời Ghergay Estever bao giờ cũng bị đặt thấp hơn người quá cố vĩ đại?
 Đám đông sững sờ trước chân lý vừa bất ngờ được mở ra. Sau đó họ bắt đầu xao động, rầm rì. Nhưng khi ấy vị ứng viên vào chiếc ghế tổng thống đã tự mình lên tiếng bảo vệ cho sự nghiệp chính đáng vì sự phồn vinh của nước cộng hòa.
 - Đúng, tôi đã thừa nhận trước với các anh rằng tôi nhỏ bé xiết bao so với Ghergay Estever vĩ đại, chẳng khác gì đem ánh lấp lánh đồng xu so với ánh trăng. Đúng, chỉ mình Ghergay Estever là xứng đáng ngồi vào chiếc ghế tổng thống Xứ Mơ. Nhưng tôi xin mạnh dạn lưu ý các anh rằng ngoài tôi ra, không còn một ứng viên nào khác vào chức tổng thống, và điều gì sẽ xảy ra với Xứ Mơ nếu nó không có người đứng đầu nhà nước? Bởi người quá cố vĩ đại không thể sống dậy từ cát bụi được để được quyền ngồi vào vị trí đó.
 - Anh thật nhầm to!- vị thầy tu kêu lên khiến mọi người kinh ngạc. - Thế nếu Ghergay Estever chưa chết thì sao? Nếu chính vì thế mà tôi đến đây thì sao? Bây giờ tôi xin hỏi các anh: các anh có thật lòng hối hận vì đã bất công đối với anh ấy không và có sẵn sàng bầu anh ấy làm tổng thống của mình không?
 Đám đông tất nhiên là đồng thanh hô vang: “Sẵn sàng”. Có tiếng xì xào lan đi giữa mọi người về một điều kỳ diệu sắp đến.
 - Các anh có muốn thấy lại anh ấy không? - vị thầy tu hỏi.
 - Muốn! - dân chúng gầm lên. - Hãy trả anh ấy cho chúng tôi!
 - Ngay bây giờ đây! - vị thầy tu kêu lên. Dứt lời ông cởi áo choàng, giật bỏ chòm râu và hiện ra trước đám đông dân chúng sững sờ đúng thật đứa con vĩ đại vừa được họ than khóc: Ghergay Estever.
 
NGÂN XUYÊN dịch từ tiếng Nga

(nguồn: TCSH số 156 - 02 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HANS CHRISTIAN ANDERSON   

    Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.


  • George Saunders - Franz Kafka

  • Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
    Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
                                  Dương Đức dịch và giới thiệu

  • Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.

  • AMOS OZ

    Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.


  • ALBERTO MORAVIA

  • KATHERINE MANSFIELD (Anh)     

    Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.

  • Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).

  • Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.

  • MARK TWAIN  

    M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.

  • L. TOLSTOY

    Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).

  • VẠN CHI (Trung Quốc)

    Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.

  • Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.

  • Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.

  • SAKI   

    1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.

  • Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.

    Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.

  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp.