Tôn sư nhưng phải trọng đạo

10:27 18/11/2013

Một mùa tri ân, tôn vinh nghề dạy học nữa lại về, cả xã hội đang hướng đến những người “chèo đò” trên dòng sông tri thức bằng những suy nghĩ, bằng cả việc làm theo cách nghĩ.

Đạo thầy trò từ xưa đã là một thứ đạo theo đúng cách: “Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy”. Trọng thị và thiêng liêng, chỉ sau đạo hiếu.
 
Sự trọng thị nghề dạy học theo thời gian ngày một phát triển, vậy nên ở nhiều nơi, với nhiều người đã có sự thay đổi trong ứng xử, khiến không còn trọn vẹn ý nghĩa của đạo học. Trình tự lễ nghi, cách thức thể hiện cũng phôi pha đi rất nhiều.
 
Quan niệm nho giáo phong kiến trước kia khiến người thầy luôn có một vị trí đặc biệt, và giữa thầy và trò luôn giữ một khoảng cách nhất định, không thể vượt qua. Đó là sự hạn chế ít nhiều, nhưng nó cho thấy một trật tự, tôn ty. Thời buổi dân chủ, cơ chế thị trường len lỏi vào học đường, nhiều khi lại trở nên quá chớn, khoảng cách, đạo lý thầy trò đôi lúc trở nên rất mong manh, dễ đổ vỡ.
 
Trước đây mỗi năm chỉ có một dịp để trò bầy tỏ sự hiếu kính với thầy, đó là ngày tết. Còn bây giờ thì sự hiếu kính có thể diễn ra bất cứ lúc nào nếu thấy cần, và nhiều người cũng không còn quá cầu kỳ, chú trọng trong phần quà sao cho văn hóa, ý nghĩa nữa. Nó được cụ thể hóa bằng đồng tiền, sức nặng của vật chất. Và cũng chính bởi đồng tiền thay cho tình cảm, khiến tình cảm trở nên dễ bị điều chỉnh.
 
Nhiều phụ huynh đã lấy đồng tiền để con cái mình thể hiện sự tôn sư vào những dịp lễ, tết, cả trong những lần nộp tiền học thêm tại nhà, thậm chí là xin thêm điểm. Và chính bởi vậy đã làm mất đi sự trọng thị, trang nghiêm của môi trường giáo dục, khiến học trò nhìn về người thầy của mình bằng con mắt cũng khác. Từ đó chúng thường ỷ vào phương tiện là đồng tiền mà bỏ bê học tập. Nguy hại hơn còn tiêm nhiễm vào đầu con trẻ một thói xấu về sự bán - mua từ khi chúng còn ngồi trên ghế nhà trường, góp phần hình thành nên thói quen chạy chọt, lụy cầu bằng “cửa sau” trong tư duy của chúng.
 
Xã hội ngày càng chứng kiến nhiều vụ việc bạo lực, thiếu văn hóa trong ứng xử giữa thầy và trò, trong đó có một nguyên nhân từ việc đồng tiền đặt không đúng chỗ, sử dụng chưa đúng cách.
 
Trong suy nghĩ của không ít phụ huynh, rằng để con cái được quan tâm, bên cạnh tình cảm cũng cần phải có chất xúc tác vật chất. Điều đó chỉ phù hợp với những nhà giáo thực dụng, xuống cấp về giáo đức.
 
Trong môi trường giáo dục vẫn có nhiều nhà giáo liêm chính, ngày ngày cần mẫn “chèo đò” trên dòng sông tri thức đưa lớp lớp học trò sang sông, lấy sự đỗ đạt của học trò làm niềm vui. Còn có những giáo viên đã rời bục giảng vẫn đem kiến thức, kinh nghiệm của mình góp sức cho đời mà không đòi hỏi bất cứ điều gì.
 
Vậy nên chúng ta không nên đánh đồng, tráo đổi từ hiện tượng thành bản chất. Càng không nên tôn sư theo cách nghĩ thực dụng: Muốn con hay chữ thì dầy phong bao... mà làm hỏng đi đạo học, tổn thương đến nghề cao quý nhất trong những nghề.
 
Chỉ còn vài ngày nữa là 20/11 cả nước hướng về nhà giáo, cần làm điều gì đó trọng thị và văn hóa, tránh việc tôn sư nhưng không trọn đạo.
 
Theo Võ Mạc Phù

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "

  • Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.

  • Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H

  • Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.

  • Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".

  • (Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.

  • Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?

  • Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.

  • Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.

  • Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!