Toạ đàm dịch thuật

09:51 26/03/2010
Vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Dịch thuật Giới thiệu Văn học Việt Nam ra thế giới, quy tụ trên một trăm dịch giả trong và ngoài nước đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau như Pháp, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc... Đây được xem là bước khởi đầu cho việc quảng bá tốt nhất văn học Việt ra thế giới.

Dịch giả Trần Thiện Đạo - Ảnh: Lê Vĩnh Thái

Nhân dịp này Sông Hương giới thiệu “cuộc hội ngộ bàn tròn” với sự góp mặt của nhiều dịch giả uy tín (nội dung do nhà văn Trần Thiện Đạo chuyển đến). Tuy còn nhiều điều cần thảo luận song qua đây đã vỡ vạc ra một số vấn đề quan trọng mà những người làm công tác dịch thuật và những ai trong nghề văn đều cần tham khảo.
S.H



Toạ đàm dịch thuật


Trần Thiện Đạo

Nói về kinh nghiệm dịch thuật của tôi: thời tôi đi dạy ở bên Pháp (nghề nghiệp của tôi là giảng viên, giáo sư trung học), tôi có giảng dạy từ tiếng Anh ra tiếng Pháp và ngược lại, từ đó tôi có một số kinh nghiệm và sau này tôi mới có dịp đọc một số bài nói về dịch thuật, thí dụ Trương Chính hay Đặng Thai Mai, thì họ có nhắc tới tiêu chí về dịch thuật (năm 60) nhắc lại lối dịch thuật của Trung Quốc dùng ba chữ: tín, đạt, nhã. Tôi có suy nghĩ về ba chữ đó mà tôi cũng có thể áp dụng, nhưng chưa chắc tôi đã áp dụng đúng như người ta đã hiểu. Với tôi, tín là trước hết là dịch sao cho đúng từng chữ, sau đó mới tới chữ đạt tức là cho dù câu văn đó chính có nghĩa như thế này nhưng nguyên ý của tác giả chưa chắc đã như thế, thì đạt là khi mình nói tới nguyên ý của tác giả... Còn nhã, mấy anh em nói chuyện có bảo là dịch thế nào cho hay, suôn sẻ, đẹp đẽ... Thế thì chưa chắc đã đúng... Đạt nghĩa là thế này: cho dù mình dịch đúng từng chữ, từng câu, chưa chắc tác giả đã muốn phát biểu ý đó. Tôi thấy rất nhiều trong những bản dịch từ tiếng Pháp ngay từ câu đầu đã sai rồi. Vì người ta dịch thì đúng, thì tín, nhưng đạt thì chưa. Thí dụ từ L’ étranger dịch là Người dưng là sai hoàn toàn. Đạt là phải hiểu nguyên ý của tác giả muốn nói gì. Tôi có ít nhất 5 bản dịch trong Nam ngoài Bắc đều là tín cả mà không đạt. Cái chuyện dịch không phải dễ đâu, vì khi dịch thông qua một thứ tiếng khác nó có vấn đề văn hoá. Tôi đọc bài của Trương Chính hay Đặng Thai Mai tôi quên mất rồi, nhắc tới một bản dịch của ai đó dịch một tác phẩm của Nga thế kỷ 19. Vì thời đó chế độ Nga hoàng phải uốn éo, nên Trương Chính (hay Đặng Thai Mai) khen cái bản dịch là nhã vì giải thích luôn những chỗ phải uốn éo đó vào trong bản dịch. Tôi cho đó không phải là nhã. Cái nhã là nếu trong tác phẩm, có một hai câu hết sức lủng củng, thì tôi dịch cũng lủng củng, vì cái lủng củng là của tác giả chứ không phải của tôi. Cái nhã là phải tôn trọng văn phong của tác giả. Cái nhã của tôi là với nghĩa đó chứ không phải cái gì cũng suôn sẻ. Tôi muốn nói thêm một cái đằng sau đấy nữa: là không phải tác giả nào có tiếng thì cái gì cũng hay cả. Camuy là người tôi biết từ đầu tới cuối, có những chữ viết rất lủng củng, có những chữ rất thấp kém nữa. Như thế mà một dịch giả lại nâng cao thì đó không phải là dịch mà là phản. Tác giả viết dở, viết lủng củng thì mình phải dịch đúng cái đó chứ. Đó là cái khi mà người ta khảo cứu người ta ừ cái thằng cha này không phải cái gì cũng giỏi hết. Cái mà tôi muốn nói là trong những bản dịch mà tôi xét thấy đó, không phải cứ Tây là giỏi. Tôi là thằng Tây có phải cái gì tôi cũng giỏi đâu...

Thúy Toàn

Có một đợt thảo luận gồm có những người phần lớn là những bạn dịch tiếng Trung Quốc. Sau đó cũng có một số người dịch tiếng Pháp như bác Hướng Minh, bác Đỗ Đức Dục... một vài người tham gia vào, còn phần lớn là những ông như Lê Sơn Hinh, Trương Chính... những vị dịch tiếng Trung Quốc tham gia cuộc thảo luận lúc đó. Sau đó Viện Văn học có tổng kết nhưng rồi cũng không đi đến đâu cả. Ở chúng ta những năm 90 lại có một đợt nữa rộ lên là thảo luận về lý thuyết dịch thuật. Trên các báo Văn nghệ có, đặc biệt là tham gia có cả tạp chí Văn nghệ quân đội, Thanh niên cũng một số bài. Cũng trao đi đổi lại về cái tín, đạt, nhã. Thì hôm nay anh Trần Thiện Đạo là cho cái suy nghĩ của riêng anh.

Trần Thiện Đạo

Tiếng Pháp thì nó đúng, có nghĩa là tín, đạt và nhã. Trong trường hợp đó nó dùng chữ là (tiếng Pháp).

Hoàng Hưng

Theo tôi tín - đạt - nhã mà ta nêu ra, tôi ngờ nó là từ xưa, theo văn cổ Trung Hoa nên mới đặt ra cái đó, như anh Đạo nói nó phải du dương, bóng bẩy. Chữ Nhã hàm ý như thế. Còn văn hiện đại đòi nhã thì chẳng hiểu nó nhã ở chỗ nào. Theo tôi, cái les mots justes mà anh Đạo nói là chính xác, anh phải dịch chính xác cả lời văn lẫn tinh thần của bản gốc. Trong lời văn và tinh thần nó bao hàm cả ý nghĩa, cả hình thức ngôn ngữ, cả phong cách của tác giả. Tôi đề nghị giải tán chữ Nhã vì chữ nhã là vô nghĩa. Chẳng hạn một đoạn văn người ta cố tình viết lủng củng thì anh lại diễn cho nó êm đềm, du dương thì hỏng hết cả. Văn học hiện đại như các anh biết, đôi khi nó còn cố tình không nhã, bất nhã... nên có lẽ bây giờ chúng ta không nên đem tín đạt nhã ra làm tiêu chuẩn nữa.

Điểm thứ hai tôi muốn nói về cái băn khoăn của tôi về cái gọi là tín, đạt, nhã, là tôi không phải là một dịch giả chuyên nghiệp, tôi không được đào tạo để trở thành dịch giả chuyên nghiệp, tôi là một nhà thơ. Vì khoái thơ nên tôi tự học tiếng Anh, tiếng Pháp để dịch tùm lum. Tôi dịch thơ chủ yếu là để học cách làm thơ, vì dịch thơ cũng là làm thơ, hơn nữa cũng là một thú chơi. Tôi có nhận xét là thơ thì không có cách nào có thể dịch vì thơ là nghệ thuật ngôn ngữ, mà nghệ thuật ngôn ngữ đó nó gắn chặt với đặc điểm của ngôn ngữ gốc, nếu chuyển sang ngôn ngữ khác thì bài thơ bị chết mất một nửa. Thế thì dịch thơ phải hay nên như thế nào? Theo tôi cho tới giờ chỉ có thể gọi là version: từ một bản thơ nguyên gốc ta có một cái version của Việt Nam, cái version ấy là của tôi, của ông Thuý Toàn hay của ông Nguyên... ba cái version khác nhau. Một bài thơ dịch chỉ có thể quan niệm đến mức thế là cùng. Tất nhiên tôi phải bám vào cái tinh thần chủ yếu của tác giả và cái nhìn của nó cố gắng giữ được tối đa nhưng không có cách nào tránh khỏi là cái nhìn của bản thân tôi nó sẽ chen vào đó và tôi diễn đạt nó theo cái lối của tôi cũng như theo cái tinh thần của tiếng Việt. Nếu nói một cách nghiêm túc thì tất cả những bài thơ đã từng dịch sang tiếng Việt từ xưa tới nay thì không một bài nào đạt cả vì bài nào cũng chỉ được một nửa. Nếu cứ cố Việt hoá theo kiểu ông Khái Hưng dịch Sonne của Acve thành “Lòng ta chôn một khối tình/ Tình trong giây phút mà thành hư không” thì đó là adaptasion (phóng tác) hoàn toàn chứ không phải là dịch. Ông ấy đã mượn ý của nguyên tác diễn lại bằng một bài lục bát Việt Nam, nghe thì rất sướng tai, người bình dân rất thích nhưng không thể gọi đó là dịch được. Hay những bài như “Aliosa nhớ chăng ...” rồi rất nhiều những ví dụ khác cho thấy những bài thơ nước ngoài viết bằng thể thơ tự do nhưng lại được chuyển thành lục bát hay song thất lục bát của Việt Nam thì không thể gọi đó là dịch được. Ở Việt Nam tôi chưa biết bao giờ thì làm được chuyện đó, nhưng cũng có thể có người làm được hơn thế, ví dụ như một ông Lê Đức Mẫn hay một ông nào khác cả đời chỉ nghiên cứu một ông Puskin thôi, không làm cái gì khác, ông coi ông là “Puskin của Việt Nam”, ông nghiên cứu tất cả những gì đặc sắc của Puskin tiếng Nga rồi tìm một hệ thống tương ứng của Puskin Việt Nam thì khi đó may ra chúng ta mới hy vọng có được những bản dịch chuyển tải tương đối đúng cái tinh thần của tác giả. Nhưng điều đó là cực kì khó thực hiện trong thời điểm hiện nay ở nước ta.

Lê Đức Mẫn

2 loại dịch, một là loại dịch văn xuôi mà anh Hưng cho rằng phải les mots justes, mà chỉ một chữ justes này là đủ rồi. Tức là anh đã bao hàm tất cả về mặt phong cách, ngữ pháp hay là nội dung. Tóm lại là phải chính xác. Nhưng khi bàn về thơ anh lại cho rằng phải có một cái version riêng của dịch giả, mỗi dịch giả phải có một version riêng và thế thì cái tôi của dịch giả nó lại lớn hơn cái justes ấy. Thế thì tôi thấy ở đây gợn lên một cái gì không hợp lý về mặt khoa học. Vấn đề thứ hai là chúng ta dịch để cho người đọc mà từ đầu tới nay chúng ta chưa bàn đến vai trò của người đọc. Đó mới là người thẩm định bản dịch của chúng ta chứ. Còn nếu như anh Hoàng Hưng nói rằng là cái tác giả này nó trần trụi hoặc gồ ghề như thế, và bằng mọi cách chúng ta phải làm nó gồ ghề như thế, và không phải chú thích gì cả mà nếu chú thích nó không còn gì là văn chương nữa. Nếu một trang lại có 10 cái chú thích ở dưới là chỗ này nó gồ ghề nguyên bản như thế này thế thì không gọi là văn. Mà nếu đọc gồ ghề như thế thì người đọc vứt quyển sách của anh Hoàng Hưng đi ngay. Như vậy các anh bàn gì về cái chuyện dịch? Là để cho người đọc thưởng thức. Và cái chúng ta tôn trọng người đọc là chúng ta làm cho cái văn chương đó thấm vào lòng của người đọc một cách thật sự. Và tiêu chuẩn đề ra cao nhất không phải là vấn đề chữ nghĩa mà là thẩm mĩ, là tình cảm, hồn của tác phẩm đó. Người ta cảm thụ được nó. Thí dụ người ta nói rằng là nếu người Việt Nam đọc Verlaine có thể khóc, có thể đau khổ như người Pháp đọc Verlaine vậy, thì bản dịch ấy là đạt. Còn chữ nghĩa trong đó người đọc không cần. Cũng như người Việt Nam đọc truyện Kiều người ta thấy sướng là được rồi, còn ông Nguyễn Du có dịch câu nào đúng hay không thì người ta cũng không quan tâm đến điều đó. Quan niệm của tôi là người đọc có vai trò gì ở đây? Cái văn hoá của cái dân tộc đó có vai trò gì ở đây? Và cái cá nhân của người dịch có vai trò gì ở đây? Tất cả những cái đó đều là những chỗ khó khăn nhất mà khi bàn bạc tới người ta đều lảng tránh đi cả.

Trần Thiện Đạo

Tôi cũng cho rằng về cơ bản dịch văn xuôi khác hẳn với dịch thơ. Dịch văn xuôi thì người dịch có thể hoặc không có thể là nhà văn tới cùng nhưng người dịch thơ dứt khoát phải là nhà thơ. Thành ra khi Hoàng Hưng dịch thơ mới nhiều lúc tôi cũng chẳng cảm nổi nhưng tôi biết Hoàng Hưng là nhà thơ thì tôi đoán chừng cái bản dịch hay là bản chuyển ngữ ấy là một thứ thơ Việt Nam mặc dầu nó dựa trên căn bản của thơ Pháp. Cái khác tôi muốn nhấn mạnh đó là dịch văn xuôi. Ông nào nhà văn dịch càng hay nhưng nếu không phải nhà văn mà có thể viết văn được thì cũng chấp nhận được. Thơ không phải là từng chữ đâu mà có ý nghĩa tiềm tàng ở trong đó, thì phải những nhà thơ như Hoàng Hưng, Thuý Toàn... thì mới có thể chuyển ngữ thành thơ. Thí dụ bài Đợi anh ve của Simônốp, khi tôi đọc bằng tiếng Pháp (vì tôi không biết tiếng Nga), rồi tôi đọc bản của Tố Hữu tôi cho là bản của Tố Hữu nó hay hơn. Sau này có một số anh em dịch lại đúng nguyên văn từ tiếng Nga nhưng không thấy hay.

Thuý Toàn

Người đọc Việt Nam đều thừa nhận rằng có hàng chục bản dịch bài thơ Đợi anh về của Simônốp nhưng chẳng có bài nào người ta nhớ cả. Người ta nhớ mỗi bài của ông Tố Hữu mặc dù nhiều người cho đấy là dịch khác, xa với nguyên bản, ngay cả tinh thần. Ngay từ âm điệu, nhịp điệu của những câu thơ tiếng Nga ấy nó cũng khác với nhịp điệu thơ Tố Hữu. Nguyên cái đấy người ta phê phán Tố Hữu dịch sai rồi. Hay một chữ chính xác của nó là (tiếng Nga) nghĩa là “dứt khoát anh sẽ trở về” khác với “Em ơi đợi anh về.../ Đợi anh hoài em nhé”. Thế nhưng bản dịch của Tố Hữu vẫn cứ đi vào lòng người, sống với văn học Việt Nam, với đời sống tinh thần Việt Nam. Dịch thơ khác với dịch văn xuôi chính ở chỗ đấy. Không chỉ anh Đạo mà tất cả các bạn đọc Việt Nam đều khẳng định không bản dịch nào vượt được bản dịch của Tố Hữu. Ngay cái khổ thơ mà Tố Hữu chọn được năm chữ thì hình như là thể thơ đó cũng quá đạt rồi, nó thành Việt Nam rồi. Có lẽ dịch thơ với văn xuôi như anh Mẫn, anh Hưng nêu ra nó là hai vấn đề.

Đoàn Tử Huyến

Trước hết đã gọi là dịch thì phải trung thành với tác giả chứ không thể phóng tác được. Bài thơ của Tố Hữu và của Simônốp là hai bài thơ khác nhau, nội dung khác nhau. Bài thơ Tố Hữu mượn ý của Simônốp chứ tinh thần là khác với nguyên tác. Gọi là dịch theo tôi là không đúng. Chỗ ấy nên nói lại là phóng tác và khi phóng tác anh có quyền đi xa được... Cái xuất phát thứ nhất là phải từ tác giả.

Còn cái thứ hai anh Mẫn không đồng ý cũng phải. Vì trừ những nhà nào phải ngông cuồng lắm, thiên tài lắm thì mới làm cho mình, còn thường thường mỗi người dịch nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay đều phải tính đến người đọc. Tính đến người đọc ở mức độ nào? Tính đến mức độ mà anh vứt luôn tác giả mà làm cho người đọc xuôi tai thì cũng không được. Cho nên ta tính đến mức độ nào mà đảm bảo được cả hai cái, không vứt cái này sẽ làm hỏng cái kia. Cái khó hiện nay chính là nằm ở đấy. Những thao tác nào, những quan niệm nào nhằm đạt được một bản dịch hay là như thế. Trong lúc dịch người dịch có tính toán là bản dịch này nên dùng cho công chúng Việt Nam đọc nội dung, như sách trinh thám, sách giải trí... chỉ cần truyền tải một nội dung nhất định để người Việt Nam đọc giải trí được, trường hợp ấy người dịch không cần phải chú ý lắm đến độ trung thành với nguyên tác. Nhưng còn bây giờ dịch những tác phẩm công phu nghệ thuật, dụng công của tác giả viết ra là nhằm chuyển tải một cái gì đó của nghệ thuật, ví dụ như Jame Joyce, thì làm sao dịch cho công chúng Việt Nam êm tai được. Khi đó ta cần phải có một định hướng khác. Cái khó nhất của những người dịch là xác định đối tượng và cách thức truyền tải nó như thế nào để nhằm đạt đến mục đích cuối cùng của mình. Và cái mục đích này ảnh hưởng đến cách dịch. Ví dụ ông Khái Hưng chẳng hạn, không phải ông không thể dịch được đúng nguyên tác, nhưng vì mục đích đặt ra khác, như anh Mẫn nói để cho người Việt Nam đọc thấy sướng, nên dịch thơ lục bát để dễ đi vào lòng người. Hiện nay làm thế nào để có một nền dịch thuật, một phương pháp dịch thuật dựa trên khoa học là chính, chứ không phải dựa trên cảm tính. Cảm tính thì dễ, mà nhiều khi không dịch được khoa học thì người ta dễ trốn đằng sau cái cảm tính, bảo tôi thích thế, tôi dịch cho người Việt Nam như thế, thì trốn ngay cái phần học thuật. Mà tôi nghĩ rằng đã mang tiếng dịch thì phải đảm bảo được cái phần học thuật, mà học thuật nhiều khi còn nặng hơn cả phần cảm tính. Còn khi người ta dịch sang thơ lục bát dân tộc thì cũng được, đấy là cái quyền của người ta. Nhưng trường hợp đấy tôi đề nghị xin ghi rõ không phải là dịch, mà gọi là phóng tác chẳng hạn. Tôi xin nói thêm: Trung tâm của chúng tôi là một trung tâm văn hoá, trong đó làm công việc dịch thuật tương đối nhiều. Quan niệm rất khác nhau, như chúng ta vừa thấy mới có ba, bốn người nói thôi nhưng có ba, bốn quan điểm khác nhau, không trùng nhau rồi. Chúng tôi muốn về mặt lâu dài ở đây tập hợp được một câu lạc bộ dịch thuật để ngoài việc tạo ra được những ấn phẩm, bản dịch có thể công bố được với người đọc, thì cũng có thể là nơi gặp gỡ, trao đổi, thông tin lại với nhau những quan điểm của mình, những thông tin nào đấy cần thiết cho từng người làm công việc của mình một cách thích thú. Và nhằm mục đích này, chúng tôi cũng muốn sau này ra được một bộ sách Sổ tay dịch thuật văn học, những ý kiến của mình, bày tỏ quan điểm một cách thẳng thắn, miễn là làm thế nào mỗi người phát biểu một ý kiến. Một ý kiến người ta cho là độc quyền, độc đoán, hai ý kiến ngược nhau thì có thể là tranh luận, còn nếu mười ý kiến thì người nghe lúc đấy trở thành dân chủ và có thể tìm ra được một chân lý nhất định nào đấy.

Ngô Tự Lập

Từ ý kiến của anh Hoàng Hưng, theo tôi về bản chất thì cái gì cũng có thể dịch được. Cái năng lực của những ngôn ngữ, tiềm năng của nó đủ để biểu cảm tất cả mọi thứ vì chúng ta cùng chung một nhân loại, yêu giống nhau, ghét giống nhau, tất cả cùng tồn tại trong một cái cộng đồng này. Và nó có thể được diễn đạt bằng ngôn ngữ khác, một cách nào đấy, có thể trình độ phát triển của ngôn ngữ ấy còn kém, còn chưa đạt đến mức ấy như về khoa học kỹ thuật chưa đạt đến chẳng hạn nhưng về bản chất thì chúng ta đều dịch được. Thế nhưng đến một lúc nào dịch được thì chúng ta cần nhiều điều kiện. Chẳng hạn như anh Hoàng Hưng nói có người xả thân vì một tác giả để tìm hiểu. Nhưng việc dịch còn quan trọng ở chỗ này: nếu tôi biết tiếng Pháp, tôi đọc một bản tiếng Pháp, tôi tin rằng bản tiếng Pháp sẽ không chính xác bằng bản dịch được. Bởi vì tôi là người Việt nên tôi cảm nhận truyện ngắn của Maupassant khác với người Pháp cảm nhận. Mà tác phẩm được viết bằng tiếng Pháp cơ. Cảm nhận của tôi do tiếng Pháp của tôi yếu nên chỉ riêng việc đọc cũng đã toát hết mồ hôi mới hiểu được ý nghĩa, thế là tôi đã hiểu sai ý của Maupassant rồi. Nếu có một dịch giả đạt trình độ bilingue (song ngữ) hoàn hảo thì ông ấy chuyển tới cho tôi những réaction (phản ứng) của người đọc ở trong tiếng Pháp ấy, người ta đọc tiếng Pháp thấy thế nào, mà khi chuyển sang tiếng Việt để tôi đọc bản tiếng Việt cũng cảm thấy giống y như thế. Tôi nghĩ như vậy bản tiếng Việt còn chính xác hơn bản tiếng Pháp chứ. Bản dịch nếu mà đạt hoàn hảo, thì đối với những người ngoài cộng đồng ngôn ngữ nguyên bản ấy nó còn chính xác hơn cả nguyên bản. Đấy là ý tưởng của tôi. Tôi nghĩ rằng vấn đề là chúng ta có làm được điều ấy hay không? Tất nhiên khó mà hoàn hảo được nhưng vấn đề là chúng ta cũng phải tiếp cận được điều ấy. Đây đang nói chuyện dịch bác học, tức là dịch chuyển đúng chân dung, phong cách, mọi khía cạnh liên quan đến văn bản ấy trong nguyên tác sang một tiếng khác, chứ không nói vì là thương mại thì biến nó đi một tí cho người ta thích hoặc là rút ngắn lại cho người ta đỡ mệt mỏi. Chuyện ấy lại khác và chúng ta không nói đến. Tôi chỉ bàn về chuyện dịch làm sao để người ta cảm nhận về đúng tác giả đấy như là được cảm nhận trong thứ tiếng của ông ấy và tôi nghĩ chúng ta có thể làm được.

Anh Hưng đã nói và tôi rất đồng ý chỉ cần chữ tín thôi, chữ tín là bao gồm tất cả, tức là chuyển được toàn bộ được những cái gì mà tác giả làm và người đọc cảm nhận được ở nguyên bản trong một cộng đồng ngôn ngữ khác. Muốn làm được thế tôi nghĩ phải có những người song ngữ hoàn hảo, nếu không thì rất khó. Trường hợp ấy hiếm. Chúng ta thì không phải song ngữ hoàn hảo, mà chúng ta đành cố gắng gần gần được như thế thôi.

Trần Thiện Đạo

Khi tôi nêu lên ba chữ đó vì tôi là một nhà giáo nghĩa là tôi làm thế nào để người ta hiểu từng khúc. Khi tôi dùng chữ tín với nghĩa mà tôi đã cho đó, để có thể nói rằng một số bản dịch thì thấy người ta trọng chữ tín với cái nghĩa của tôi hơn là đạt. Năm 1967, nghĩa là 30 năm trước, ở Sài Gòn tôi đã viết một bài phê phán một số người cứ lợi dụng chút tên tuổi sẵn có của mình để dịch một cách tuỳ tiện, cẩu thả. 30 năm sau tôi về Hà Nội, tôi thấy cũng một số như thế. Nếu tôi có quyền, tôi sẽ nhắc nhở một số người, một số dịch giả sau khi có tên tuổi rồi cứ đứng trên cái cơ bản đó muốn làm gì thì làm. Bởi vì cái đó tôi không đủ trình độ nhưng có những người họ đủ trình độ để phê phán. Tôi muốn nhấn mạnh: nếu anh có một cái gì đó thì không có quyền lợi dụng sự tín nhiệm của người khác để làm sai khiến độc giả hiểu sai tác phẩm. Còn về chuyện tín, đạt, nhã các anh vẫn có thể nghĩ cách khác, nhưng mà tôi đưa ra 2 -3 khúc như thế để mỗi khúc có thể giải thích mà thôi.

Nguyễn Văn Dân

...Tôi muốn quay về với lịch sử của dịch thuật. Từ đầu đến giờ tôi thấy các vị chỉ nói đến dịch văn học thôi, nhưng chúng ta phải nhớ không thể tách văn học ra khỏi dịch thuật nói chung. Mà cái khởi nguyên của loài người là dịch khoa học, sau đó mới phát triển dịch văn học nên tính chất khoa học của nghề dịch bao giờ cũng vẫn còn. Trong lịch sử dịch thuật văn học tôi có theo dõi thì thấy rằng bao giờ ban đầu người ta cũng dịch rất ẩu, có khi người ta cắt, có khi phóng tác, nhưng dần dần yêu cầu chính xác ngày càng cao. Cho đến thời nay thì người ta không chấp nhận dịch phóng tác nữa, không chấp nhận kiểu dịch cắt cúp, thêm bớt nữa. Chẳng hạn như vở Ôtenlô của Sêchxpia dịch sang tiếng Pháp, hồi đầu người ta thay đổi nhiều chi tiết chẳng hạn chiếc khăn mùi xoa của Desdemona người thì dịch là vòng cài đầu, người dịch là khăn choàng... Đến thế kỷ lãng mạn người ta mới dịch đúng là chiếc khăn mùi xoa bằng lụa... Như tôi đã nói ban đầu bao giờ cũng có yếu tố không chính xác, yếu tố ngẫu hứng, phóng tác chi phối nhiều nhưng càng ngày người ta càng coi trọng yếu tố chính xác với nguyên tác. Nếu xét theo thực tế của lịch sử dịch thuật theo chiều hướng như thế thì tôi nghĩ là chữ tín vẫn là quan trọng nhất. Trong một số bài viết của tôi, tôi có lý luận, thế nào là chính xác? Mà làm thế nào để chính xác nó bao gồm cả đạt, cả nhã. Tôi có quan niệm chữ chính xác của tôi là chính xác toàn diện, tức là nó phải diễn đạt được tương đương ý của tác giả, tương đương trong cách diễn đạt của tiếng Việt, chứ không phải máy móc dịch từng câu mot à mot chính xác là dịch đúng từ trong văn cảnh cụ thể của nó... Tôi có áp dụng lý thuyết về suit logicque của lôgich hình thức, người ta có lý luận: không sai chưa phải là đúng. Có người lý luận rằng tôi dịch rất đúng từng chữ nhưng bây giờ phải gia công thêm cho nó nhã, nó hay. Tôi không chấp nhận. Dịch đúng chính xác toàn diện theo tôi là phải đúng trong văn cảnh và đúng nghĩa tương đương của văn của hai ngôn ngữ. Như thế là đạt đến độ chính xác toàn diện, nó sẽ bao hàm cả truyền đạt chính xác ý đồ về ngữ nghĩa và thẩm mỹ của tác giả. Chứ còn dịch đúng theo kiểu kia nghĩa là không sai chứ không phải là đúng. Nên cuối cùng tôi rút ra một điều rằng dịch thuật nó là một nghề vừa mang tính nghệ thuật vừa khoa học. Chúng ta không thể tách văn học ra khỏi khoa học được, mặc dù chúng có những đặc thù, vì phải thấy cái gốc chung của nó và nhấn mạnh tính khoa học của nó. Không thể nào căn cứ vào việc dịch thế nào hay để người ta tiếp thu được là được. Tôi không đồng ý với ý kiến đấy. Trong trường hợp đấy người ta gọi là phóng tác. Chẳng hạn Hồ Biểu Chánh, ông phóng tác một loạt những chuyện của Victo Hugo rất thành công nhưng đấy không gọi là dịch, đấy gọi là phóng tác. Nó có ý nghĩa, có đóng góp nhưng không gọi là dịch. Nếu chúng ta cứ lý luận dịch để cho người đọc tiếp nhận mà không để ý đến nguyên tác, thì khi đưa dịch thuật văn học vào phạm vi chung của dịch thuật khoa học, chúng ta sẽ thấy nó rất là nguy hiểm. Một bản dịch khoa học mà dịch sai là chết. Cũng như vậy một bản dịch văn học nếu dịch sai có thể sai hẳn. Một tác phẩm của Rumani một nhà thơ rất nổi tiếng ca ngợi hoà bình, khi người ta dùng hình tượng khi thần hoà bình lên tiếng thì thần chiến tranh lu mờ đi, thế mà người dịch dịch là thần chiến tranh luôn đứng bên người, thế là tự nhiên diễn đạt một tinh thần hiếu chiến của dân tộc ấy. Tôi cho đấy là rất nguy hiểm chứ sao lại bảo là đi vào lòng người, chỉ cần người đọc thấy hay? Hay là một tác phẩm cũng của dịch giả ấy dịch tác phẩm của một tác giả khác, mô tả một cảnh bốn anh lính đảo ngũ, một bà goá chồng đã mười năm đến để tranh thủ xin tình yêu của bốn anh chàng này và sau đó các anh chàng về với vợ con chứ không ra trận, thế mà người dịch dịch là đến để ban tình yêu cho bốn anh chàng và các anh chàng ra trận hăng say chiến đấu. Và bản dịch sai đó đã được 4 -5 nhà văn Việt Nam viết bài ca ngợi vì nó đúng kiểu của nhà văn đó. Tôi cho như thế là rất nguy hiểm. Thế nên không thể tách dịch văn học ra khỏi dịch thuật khoa học, nó vẫn phải giữ cái gốc khoa học, vẫn phải tôn trọng tính chính xác của nó. Tôi có một chút thiển ý như thế.

Lê Đức Mẫn

Tôi phát triển ý mà anh Đoàn Tử Huyến nói tôi cho là rất hay, sau đó anh Dân nói tôi thấy cũng hợp lý, là chúng ta làm sao phải cố gắng giải quyết vấn đề dịch thuật trên cơ sở khoa học chứ không phải trên cơ sở ngẫu hứng của các nhà dịch thuật hoặc các nhà văn. Cơ sở khoa học là gì? Yếu tố gọi là khoa học nằm trong ngôn ngữ, yếu tố để giải quyết phải là ngôn ngữ học, cộng với vấn đề văn hoá. Tất nhiên phải có cả 2 mặt. Nhưng yếu tố đầu tiên đập vào mắt chúng ta là ngôn ngữ. Đó là cơ sở khoa học tốt nhất. Tôi làm công tác giảng dạy, gần 40 năm dạy bên đại học ngoại ngữ, thì tôi thấy toàn bộ lý thuyết về mặt ngôn ngữ trong dịch thuật người ta đưa ra một khái niệm tương đương gọi là équivalent (không gọi là justes vì đó là khái niệm văn hoá). Nếu chúng ta đưa vào những yếu tố tương đương thì chúng ta giải quyết các vấn đề khoa học dễ dàng hơn rất nhiều. Trong cái tương đương về ngôn ngữ có mấy cái: thứ nhất là về từ vựng. Ban nãy anh Ngô Tự Lập đã nói chúng ta tư duy hoàn toàn như nhau vì thế giới vật chất và thế giới tinh thần của chúng ta là như nhau, là khách quan. Các khái niệm, thuật ngữ cũng như từ vựng của các ngôn ngữ có thể không giống nhau về mặt hình thức, về âm thanh cũng như chữ viết nhưng nó có sự tương đồng với nhau, mà nếu không có thì người ta vay mượn vẫn được. Bây giờ nói “thư điện tử” thì dài, người ta bảo “anh meo cho em một bài hay một câu”... Nếu không có từ vựng thì người ta đi mượn, đấy cũng là tương đương. Cái thứ hai là về ngữ pháp. Ngữ pháp người ta khẳng định rằng ngữ pháp của các thứ tiếng về cơ bản nó phản ánh những mối quan hệ lôgic giống nhau nhưng hình thức của nó khác nhau khá nhiều. Thí dụ như trong các ngôn ngữ phương Tây, như tiếng Nga có những loại câu như câu vô nhân xưng thể hiện những điều rất khó diễn đạt và không có một hình thức thuần tuý tương đương nhưng chúng ta có những cấu trúc của chúng ta và có thể tìm được cấu trúc tương đương để giải quyết. Trong vấn đề ngữ pháp thì người ta có đưa ra một vấn đề: mỗi ngôn ngữ tận dụng những tính đặc thù và những ưu thế của nó để giải quyết những trường hợp mà chúng ta không có những tương đương trong tiếng mẹ đẻ của mình. Bởi vì các ngôn ngữ khác nhau. Thí dụ trong tiếng Việt có những tiểu từ ở cuối câu, nó làm cho những câu đó mang màu sắc tình cảm rõ rệt, thì trong các thứ tiếng phương Tây không có. Ví dụ: Anh ấy đã đi rồi à? là sự ngạc nhiên; Anh ấy đã đi rồi ư? thì nó cũng là câu hỏi nhưng biểu hiện sự tiếc nuối; Anh ấy đã đi rồi nhỉ? biểu hiện mức độ tình cảm gắn bó cao rồi... Những thứ đó trong các thứ tiếng phương Tây không có mà chúng ta có thì chúng ta tận dụng những yếu tố đó để tạo dáng cho phong cách ngôn ngữ của mình, cho cái bản dịch của mình và những cái đó người ta vẫn cho là cái hay mà có thể phát triển được. Cái tương đương thứ ba là tương đương về thành ngữ. Nếu xuất hiện những thành ngữ, tục ngữ rồi những lời trích dẫn mà trong đó nó đã bắt đầu đụng đến những yếu tố văn hoá của các dân tộc thì người ta lại đòi hỏi có những tương đương rộng hơn tức là những cái tương đương về văn hoá. Thí dụ những thứ tiếng khác nói rằng: “Anh ấy im như cá” thì tiếng Việt không nói thế mà phải nói rằng “Câm như hến”. Cái việc chúng ta đã thay đổi từ vựng cho phép trong thành ngữ, tục ngữ hoặc những câu nói cố định trong các ngôn ngữ thì như vậy tức là chúng ta có ba cái tương đương: từ vựng, cú pháp, thành ngữ hoặc là hình tượng. Hôm nay không phải là cái buổi dài để ta lấy chi tiết từ vựng nó như thế nào nhưng nếu chúng ta bắt đầu khẳng định được một tiếng nói chung với nhau là tất cả các việc dịch thuật ban đầu xuất phát từ yếu tố đầu tiên là ngôn ngữ với khái niệm cơ bản của nó là tương đương và tương đương có ba mặt như thế thì chúng ta có thể giải quyết vấn đề một cách khá thuận lợi.

Lộc Phương Thủy

Thành lập một câu lạc bộ những người dịch tôi thấy là ý tưởng rất hay. Nó hay ở chỗ chúng ta có thể trao đổi, tranh luận và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau... Tôi nghĩ nếu như có điều kiện thì trung tâm này ra kết hợp với một số nơi sẽ làm một cuộc hội thảo về dịch thuật nữa chăng. Chắc chắn sẽ còn nhiều điều nói vì tôi thấy ở đây có nhiều ý kiến. Anh Mẫn lúc nẫy nói càng ngày càng thấy các quan điểm gần lại thì tôi nghĩ là cũng là cái tốt nhiều khi nó cách xa nhau cũng có cái hay bởi vì khi xa nhau nó cũng có những cái để so sánh trao đổi thì tôi nghĩ là có khi hay.

(253/03-10)


Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)