Tố Hữu - Thơ và đời

15:46 15/12/2022

PHONG LÊ

Hơn 60 năm sáng tác và với tuổi đời ngoài 80, Tố Hữu là nhà thơ luôn luôn hiện diện trong sinh hoạt tinh thần của dân tộc Việt Nam thế kỷ XX.

Ảnh: tư liệu

Tố Hữu, đó là một sự nghiệp thơ gắn bó và song hành với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Cũng có thể nói, Tố Hữu là ca sĩ sớm nhất và lớn nhất, có thanh âm vang ngân nhất trong bản hợp ca cách mạng của nhân dân.

Từ ấy, tập thơ đầu tay của Tố Hữu viết trong hoàn cảnh đất nước còn trong tình cảnh nô lệ. Và, trong bối cảnh phong trào Thơ mới đã tiến hành xong một cuộc cách mạng trong thơ ca. Từ ấy đạt được cả hai phương diện, hai mục tiêu: nội dung trữ tình cách mạng và ngôn ngữ, thể loại, giọng điệu mới, trong cái nghĩa mà cả một phong trào thơ với định ngữ mới đã theo đuổi và đạt được. Từ ấy, có thể nói, đã cùng lúc thực hiện trong nó hai yêu cầu: cách mạng hóa và hiện đại hóa; hai yêu cầu được khởi động từ đầu thế kỷ XX và diễn ra xuyên suốt cả thế kỷ.

Nếu Từ ấy là “tiếng ca của một người thanh niên, một người cộng sản”, nói như Hoài Thanh, thì Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Việt Nam - máu và hoa lần lượt là bản hợp ca, rồi tráng ca của một dân tộc anh hùng không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào, trước bất cứ khó khăn, gian khổ nào để giành cho được độc lập, tự do. Hình ảnh của những bé Lượm, bà bủ, bà bầm, cô gái phá đường, anh Vệ quốc quân dưới chân Đèo Nhe... tất cả đều là những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, nhưng qua cái nhìn yêu thương, trân trọng và cảm phục của nhà thơ, những con người bình thường, cụ thể đó bỗng được nâng lên thành biểu tượng của Nhân dân, của Tổ quốc. Lịch sử thơ ca Việt Nam từ cổ điển đến hiện đại, có lẽ chưa đâu có những hình ảnh sinh động và thấm thía yêu thương như thế về những con người bình thường mà làm nên lịch sử:

Rất đẹp, hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới 
Lá ngụy trang reo với gió đèo
...
Anh về, cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân
Anh về, sáo lại ái ân
Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca
                       
(Lên Tây Bắc, 1948)

Con đi trăm núi nghìn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi
Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm, yêu nước cả đôi mẹ hiền
                       
(Bầm ơi, 1948)

Tất nhiên, phát hiện của Tố Hữu trên hai chiều cạnh, hai tầm vóc bình thường mà vĩ đại này chỉ có thể diễn ra trên nền cao của một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thật sự. Để từ đó mà có được những thành tựu thơ trên hai định hướng: viết về nhân dân và thuộc lời nhân dân. Phải có điểm tựa đó, Cách mạng Tháng Tám, mới đem lại được sự hồi sinh cho các thế hệ nhà thơ đã nổi tiếng từ trước 1945 như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, và sự sinh thành một thế hệ các nhà thơ mới là sản phẩm của cách mạng, như Quang Dũng, Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung... Còn Tố Hữu, ông là người có tư cách cùng lúc đại diện cho cả hai trong sự gắn bó của những gì ưu tú nhất; và do vậy là người kết tinh cao nhất cho thành tựu nghệ thuật thơ, cho phẩm chất thơ trong buổi đầu khai mạc kỷ nguyên Dân chủ Cộng hòa.

Gió lộng là tiếng ca vui, vừa hào sảng vừa tha thiết của đất nước trong buổi đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là Bài ca mùa xuân…, là tư thế con người được giải phóng khỏi mọi đè nén, áp bức đang vươn lên các đỉnh cao:

Chào 61, đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau

Đỉnh cao với nền móng là Cách mạng Tháng Tám, rồi chiến thắng Điện Biên. Nhưng đỉnh cao còn là tổng số những phấn đấu nhỏ nhoi, khiêm nhường, bền bỉ, thầm lặng trong muôn chuyện bình thường dệt nên cuộc sống thường ngày của dân tộc:

Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than, mẩu sắt, cân ngô
Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ
                       
(Bài ca mùa xuân 61)

Ở đỉnh cao hiện tại, Tố Hữu cũng đồng thời cho thấy một gắn nối thật sâu xa với quá khứ. Quá khứ rất sâu với “Hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu” trong “Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng”; với Nguyễn Du qua dòng “lệ chảy quanh thân Kiều”. Gần hơn với Quê mẹ “Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường”, và Mẹ Tơm “Sống trong cát chết vùi trong cát”... Trong cảm nhận của Tố Hữu cái hôm nay luôn luôn gắn nối với xưa. Cái hôm nay vừa là tầm cao vừa là bề sâu; và hiện thực hôm nay, đó là một bức tranh tươi sáng và ấm áp trong tình người, tình đời; một bức tranh khó tìm được trong quá khứ, và có lẽ cũng khó trở lại một lần thứ hai trong tương lai:

Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau

Ra trận, chuyển từ bản hợp ca vui trong Gió lộng đến bản tráng ca hùng vĩ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Ra trận, vẫn tiếng thơ Tố Hữu ở hàng đầu và ngân vang trong dàn hợp xướng dân tộc đi tới chiến thắng mùa xuân 1975; và đi tới toàn cảnh “nước non ngàn dặm”:

Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm
                       
(Việt Nam máu và hoa, 1973)

Là nhà thơ trữ tình công dân, “trữ tình chính trị” theo cách nói của Trần Đình Sử, từ Từ ấy đến Máu và Hoa, Tố Hữu đã là người thể hiện được trọn vẹn nhất tình yêu quê hương, đất nước; thể hiện được đậm đà nhất sự gắn bó sắt son, chung thủy với Đảng, với cách mạng. Cũng Tố Hữu, hơn tất cả mọi người làm thơ cùng thời, là đại diện tiêu biểu nhất cho tình cảm của hàng triệu, hàng chục triệu con tim Việt Nam đối với lãnh tụ dân tộc - Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chưa ai, và chẳng thể ai vượt được Tố Hữu, người đón nhận và chuyển tải được một cách kịp thời đến thế, mối giao cảm lớn lao và thống thiết đến thế của nhân dân Việt Nam trong ngày Bác mất, qua Bác ơi! (1969).

Chưa ai, và cũng chẳng ai thay thế được Tố Hữu trong sự kết hợp tự nhiên, như không thể khác được, hành trình dân tộc qua hành trình một con người, như trong Theo chân Bác (1970).

*

Sau Từ ấy (l937 - l946), Việt Bắc (1947 - 1954), Gió lộng (1955 - 196l), Ra trận (1962 - 1971), Máu và Hoa (1972 - 1977), Tố Hữu lại đến với chúng ta, lại hiện diện cùng ta trong Một tiếng đờn (1978 - 1992) rồi Ta với ta (1993 - 2000).

Một tiếng đờn, ở tuổi ngoài bảy mươi và Ta với ta ở tuổi vào tám mươi của tác giả, trong những năm đất nước chuyển vào thời kỳ Đổi mới.

Một tiếng đờn, vẫn Tố Hữu trong tiếng thơ quen thuộc nhằm nhắc nhở con người hướng vào những tình cảm lớn của dân tộc, những mục tiêu cao cả của cách mạng, không được phép băn khoăn và đi chệch.

Với Một tiếng đờn Ta với ta Tố Hữu vẫn là người kiên trì và chung thủy với những gì đã được xác định từ Từ ấy. Nhưng kể từ Từ ấy cho đến lúc này, hơn sáu mươi năm đã trôi qua, và những Phước trong Đi, đi em, những Tiếng rao đêm, và những cô gái trong Tiếng hát sông Hương đương đại có làm ông ngỡ ngàng?

Từ sau 1975 ngọn lửa chiến tranh đã dần dần tắt lặng. Công cuộc hòa bình xây dựng đất nước đã diễn ra chẵn một phần tư thế kỷ. Một tiếng đờn, rồi Ta với ta, do vậy lại không thể là sự tiếp tục y nguyên tiếng thơ cũ. Đã có một tiếng nói mới, một giọng điệu mới nơi Tố Hữu. Trước, ông nói với đời. Và ông nói với lòng tin, tiếng thơ ông là tiếng nói lớn của đời. Hãy xem, hãy nghe, hãy nhớ!... Đừng quên, không thể, có thể nào!... Đó là những lời quen thuộc của Tố Hữu mà cả đất nước một thời cùng lắng nghe, cùng đồng vọng. Bây giờ đã có lúc ông nói với mình, như một cách dặn lòng:

Dưỡng sinh, hai chữ, hay là!
Hít vào thong thả; thở ra nhẹ nhàng
Bàn tay xoa bóp dịu dàng
Vuốt đầu thanh thản, mịn màng tóc tơ
Lòng không bợn chút bùn dơ
Biết đâu trăm tuổi, còn thơ với đời
                       
(Dưỡng sinh, 1988)

Cố nhiên vẫn là Tố Hữu, ở một quyết tâm ráo riết bên trong:

Phải trái, dại khôn, đầu vẫn sáng
Thủy chung, đen bạc, mắt chưa nhòa
Sợ chi khúc khuỷu đường muôn dặm
Ta vẫn là ta, ta với ta
                       
(Bảy mươi, 1990)

Cũng đã thấy xuất hiện trong thơ nỗi buồn thấm vào cõi riêng, để thay cho những buồn - vui chung mà suốt non nửa thế kỷ qua, Tố Hữu từng nói với tư cách đại diện:

Mới bình minh đó đã hoàng hôn
Đang nụ cười tươi bỗng lệ tuôn
Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn.
...
Có khổ đau nào đau khổ hơn
Trái tim tự xát muối cô đơn
Em ơi, nghe đó... Trong đêm lạnh
Đằm thắm bên em, một tiếng đờn.
                       
(Một tiếng đờn, 1991)

Có sự thật là trong hai thập niên cuối thế kỷ XX, như được thể hiện trong tập Một tiếng đờn, Ta với ta, Tố Hữu không còn dễ dàng tìm được tiếng vang, sự đồng vọng trong nhiều tầng lớp công chúng, vốn là hiện tượng từng diễn ra rất quen thuộc sau tất cả các tập thơ trước của ông. Nhờ một ngẫu nhiên mà lúc ấy tôi được biết Tố Hữu vừa ra một tập thơ mới, nhưng rồi cất công đi tìm khắp nơi, cả trong Nam ngoài Bắc, cả ở những người được xem là chuyên gia nghiên cứu thơ, hoặc nghiên cứu về thời đổi mới vẫn không có. Trong câu chuyện này, chẳng biết trách ai! Tập thơ in 1000 bản đâu dễ tìm. In nhiều hơn, đâu dễ bán được. Đọc Một tiếng đờn, rồi đọc Ta với ta, thấy rõ Tố Hữu đã thôi là người lĩnh xướng (hoặc chỉ huy) trong các hợp ca; ông đã kịp chuyển về tư thế của người đơn ca. Đơn ca - hát một mình. Số lượng - lùi về con số một: Một tiếng đờn. Quan hệ - từ ta với nhân quần: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người” (Từ ấy), trở về Ta với ta. Cũng dễ hiểu: đây là thời mà tất cả nền thơ hầu như ai cũng biết, để thành ngôi sao, hoặc “siêu sao” là rất hiếm. Có điều, với Tố Hữu, trong đơn ca, ông vẫn là ông. Vẫn là ông, trong suốt hành trình hơn sáu mươi năm. Ông không thay giọng, không chuyển giọng. Còn cuộc đời sau một cuộc cách mạng vĩ đại và ngót bốn mươi năm chiến tranh khốc liệt lại đang đi vào cuộc sống thời bình với những buồn vui, những lo toan muôn thuở.

Tháng 10/2022
P.L
(TCSH405/11-2022)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

  • (Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.

  • Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.

  • (Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?

  • “Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời

  • Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.

  • Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.

  • Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.

  • (Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.

  • Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.

  • (Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.

  • Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...

  • Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người

  • Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.

  • Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.

  • Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm